Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.18 KB, 98 trang )
phát triển chung phù hợp với điều kiện, năng lực và có những điều chỉnh sát với
thực tế nhằm đáp ứng được các mục tiêu đã đề ra.
* Vị trí địa lý:
Khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nối liền giữa
vùng Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ với các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Khu vực
tỉnh Hà Tây (cũ) nằm trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ, gồm các
tỉnh và thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc
Ninh, Vĩnh Phúc và Hà Tây. Chính phủ đang tập trung nhiều nguồn lực để phát
triển vùng kinh tế trọng điểm này, với các kế hoạch nhằm đảm bảo cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
Trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, khu
vực tỉnh Hà Tây (cũ) thuộc vùng du lịch Bắc Bộ, có vị trí quan trọng trong trung
tâm du lịch Hà Nội và phụ cận, và vị trí liền kề với tam giác động lực tăng
trưởng du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
* Tài nguyên du lịch nhân văn:
Vốn là một vùng đất cổ, có bề dày lịch sử hàng nghìn năm lịch sử, khu vực
Hà Tây (cũ) có một kho tàng di tích lịch sử - văn hoá đồ sộ. Với 2.388 di tích,
trong đó có khoảng 400 di tích lịch sử - văn hoá được xếp hạng quốc gia. Đặc
biệt có 12 di tích được xếp vào loại đặc biệt quan trọng như: Chùa Hương, chùa
Thầy, chùa Tây Phương, chùa Đậu, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến... Các di
tích này đều có những sắc thái, dấu ấn lịch sử riêng biệt và là những công trình
nghệ thuật đặc sắc với kiến trúc cổ mang đậm nét của vùng văn hoá xứ Đoài.
Truyền thống văn hoá lâu đời của Hà Tây (cũ) cũng đã tạo nên rất nhiều lễ hội
cổ truyền, trong đó có nhiều lễ hội nổi tiếng như hội chùa Hương - lễ hội dài
nhất ở Việt Nam, hội chùa Thầy, hội Đền Và, hội Đền Hát Môn...
Hà Tây còn được coi là quê hương của nhiều làng nghề thủ công truyền
thống Việt Nam, vùng đất trăm nghề. Toàn khu vực hiện có 219 làng nghề
truyền thống được Nhà nước công nhận, chiếm khoảng 10% trong tổng số làng
43
nghề truyền thống cả nước, trong đó có nhiều làng nghề thủ công truyền thống
nổi tiếng từ lâu đời như lụa Vạn Phúc, nón Chuông, khảm trai Chuyên Mỹ, mây
tre đan Phú Vinh...
Hà Tây (cũ) hiện còn bảo tồn được nhiều làng Việt cổ với không gian, kiến
trúc và nếp sinh hoạt độc đáo của làng quê nông thôn Việt Nam, tiêu biểu là làng
Việt cổ Đường Lâm (thị xã Sơn Tây), mảnh đất lịch sử nổi tiếng quê hương của
Phùng Hưng, Ngô Quyền; làng Nhị Khê (huyện Thường Tín) quê hương của
danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Tất cả những di tích, lễ hội, làng nghề thủ công, làng Việt cổ này là nguồn
tài nguyên du lịch văn hoá độc đáo, đặc sắc có sức hấp dẫn du khách mạnh mẽ.
* Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) có diện tích đất tự nhiên: 2.192,07 km2, nguồn tài
nguyên du lịch tự nhiên rất đa dạng và phong phú.
Địa hình, khí hậu và sinh vật của Hà Tây có nhiều thuận lợi cho phát triển
du lịch. Khu vực núi Ba Vì ở phía Tây Bắc, bao gồm cả Vườn Quốc gia Ba Vì
rộng 7.000 ha, có đỉnh cao nhất là 1.296m, là khu vực quanh năm mát mẻ, nhiệt
độ trung bình 180C. Hệ sinh thái ở đây rất đa dạng với 812 loài thực vật bậc cao,
trong đó có những loài quý hiếm như: bách xanh, thông đỏ, thông tre, sam
bông... Về động vật, có 44 loài thú, 104 loài chim, 15 loài bò sát, 9 loài lưỡng
cư, trong đó có nhiều loài hiện còn và được ghi vào sách đỏ Việt Nam như: báo
gấm, báo hoa, gấu ngựa, cày vằn, gà lôi trắng... Ngoài ra, do địa hình núi cao,
khu vực này còn có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn với những thác nước quanh
năm không bao giờ cạn tạo nên những thắng cảnh đẹp như Ao Vua, suối Tiên,
suối Mơ, suối Ngà... Nơi đây rất thích hợp cho phát triển các loại hình du lịch
nghỉ cuối tuần, thể thao, du lịch sinh thái.
Phía Nam Hà Tây là Khu di tích - thắng cảnh Hương Sơn (chùa Hương),
đây là nơi được trời phú cho một phong cảnh thiên nhiên kỳ thú làm say lòng du
khách bốn phương. Khu vực này bao gồm một khối núi có tổng diện tích tự
44
nhiên là 5.130m2 với nhiều hệ thống hang động đẹp như: Hinh Bồng, Long Vân,
Hương Tích... Ngoài ra, tài nguyên sinh vật ở Hương Sơn rất đa dạng với nhiều
loại động thực vật quý hiếm, diện tích rừng gần 700 ha với khoảng 350 loài thảo
mộc, động vật cũng có tới 88 loài chim, 35 loài thú... nên nơi đây còn là nơi có
thể phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Hệ thống hồ nước ở Hà Tây (cũ) cũng hết sức phong phú với các hồ nước
lớn có thể khai thác kinh doanh du lịch. Hồ Đồng Mô - Ngải Sơn thuộc địa phận
thị xã Sơn Tây, cách Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây, rộng 1.200ha, khu vực
hồ Đồng Mô rất thích hợp để phát triển loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng
cuối tuần, thể thao và thư giãn. Hồ Xuân Khanh rộng khoảng 300 ha thuộc thị xã
Sơn Tây, là nơi thích hợp với du lịch cuối tuần, nghỉ dưỡng, điều trị và phục hồi
sức khoẻ, tham quan rừng núi với các sản phẩm du lịch như câu cá, bơi thuyền
... Ngoài ra, còn có một số hồ nước khác cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển đa dạng các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, sân golf,
trung tâm hội nghị, hội thảo như: Hồ Văn Sơn, hồ Đồng Sương nằm trong dự án
quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hoà Lạc.
Bên cạnh đó, với vị trí bao quanh thủ đô Hà Nội, Hà Tây (cũ) còn có rất
nhiều lợi thế để phát triển các trung tâm vui chơi giải trí, trung tâm hội nghị hội
thảo hiện đại, các trang trại du lịch sinh thái dọc theo các tuyến đường chính vào
thủ đô.
* Cơ sở hạ tầng
- Mạng lưới giao thông:
Các tuyến giao thông nối Hà Tây (cũ) với các khu vực trong vùng kinh tế
trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ đã, đang và sẽ được quy hoạch hoàn chỉnh, cùng
với việc hình thành vành đai 4 cho Hà Nội và trục kinh tế Côn Minh - Lào Cai Hà Nội - Hải Phòng sẽ tạo cho vùng những cơ hội mới. Mạng lưới giao thông
đường bộ nội tỉnh được phân bố hợp lý từ vùng đồng bằng đến vùng bán sơn
địa. Tổng chiều dài là 4.557 km, trong đó có 1.049,4 km đường ô tô, với mật độ
45
0,48 km/km2. Đường ô tô đã đến được tất cả các trung tâm xã, vùng kinh tế, các
khu du lịch. Đường quốc lộ qua địa bàn tỉnh có tổng chiều dài 240,6 km, với 8
tuyến: quốc lộ 1A cũ; 6; 32; 21 (đường Hồ Chí Minh); 21B; 2C; cao tốc Pháp
Vân - Cầu Giẽ; đường Láng - Hoà Lạc. Đường sắt: có tuyến Bắc - Nam: 29,5
km với 3 ga nhỏ, tuyến vành đai đi Lào Cai, có chiều dài đi qua là 13km. Về
đường sông: là vùng nằm trong đồng bằng châu thổ sông Hồng, nên có mạng
lưới đường thuỷ khá phong phú. Hà Tây có 3 sông lớn chảy qua là sông Hồng,
sông Đà và sông Đáy và rất nhiều sông, suối nhỏ, hồ, đầm... Hà Tây (cũ) có 2
cảng tổng hợp: cảng Sơn Tây, Hồng Vân - Thường Tín (sông Hồng), có cầu tàu,
bến vĩnh cửu và hệ thống kho bãi, ngoài ra còn có một số bến nhỏ như Vân
Đình, Vạn Điểm, Tế Tiêu. Về đường hàng không: Với lợi thế nằm rất gần sân
bay quốc tế Nội Bài, cách khoảng 40 km, với thời gian di chuyển đường bộ
khoảng 1 giờ. Theo quy hoạch của Chính phủ sẽ nâng cấp sân bay Miếu Môn
thành sân bay quốc tế.
- Điện lực: vùng hiện có mạng lưới điện quốc gia đến 100% các xã,
phường, cụm dân cư , đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và du lịch nói riêng, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và
ngoài nước yên tâm đầu tư dự án vào đây. Việc cung cấp điện được đảm bảo
thuận tiện, an toàn với hệ thống lưới điện khép kín thông qua 07 trạm biến áp
110 KV, hàng năm nhận từ lưới điện quốc gia hơn 1 tỷ KWh; lưới điện Hà Tây
(cũ) đã có 2.051 trạm biến áp với tổng công suất 862.500 KVA và 3.025 km
đường dây cao, hạ áp.
- Bưu chính - Viễn thông:
Mạng lưới viễn thông và hệ thống giao dịch đã có bước phát triển mạnh cả
về chất lượng và số lượng. Trên địa bàn Hà Tây đã có 405 điểm giao dịch với
241 điểm bưu điện văn hoá xã, số máy điện thoại đạt 6,3 máy/100 dân. Cùng với
những dịch vụ truyền thống thì hàng loạt dịch vụ mới đã được khai thác hiệu
46
quả như: chuyển phát nhanh, FAX công cộng, ... Đồng thời cũng kết nối Internet
băng thông rộng, tốc độ cao.
- Hệ thống cấp nước:
Khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) có 2 nhà máy nước được xây dựng bằng nguồn
vốn ODA, với tổng công suất khoảng 61.000 m3/ngày đêm, đặt tại 2 thị xã Hà
Đông và Sơn Tây. Năm 2007, có thêm nguồn nước sạch sử dụng từ nhà máy
nước Sông Đà (đã hoàn thành giai đoạn 1) có công suất 600.000 m3/ngày đêm.
* Lực lượng lao động
Khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) có số dân đông trên 2,5 triệu người (tính đến năm
2007). Cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ lao động có trình độ học vấn và tay nghề cao. Số
người trong độ tuổi lao động có 1.810.000 người (chiếm 71,67% dân số), trong
đó số người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân có 1.289.000
người, số lao động qua đào tạo nghề trên 25% tổng số lao động. Đây là nguồn
nhân lực quan trọng cho phát triển nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói
riêng.
Từ sự phân tích trên cho thấy những lợi thế cơ bản của khu vực tỉnh Hà Tây
cũ (nay thuộc Hà Nội) trong phát triển du lịch. Cụ thể:
Thứ nhất, tiềm năng du lịch phong phú của Hà Tây là một trong những lợi
thế lớn nhất đối với sự phát triển của du lịch của vùng. Không chỉ phát triển du
lịch lễ hội, Hà Tây còn có thể phát triển nhiều loại hình du lịch khác như du lịch
sinh thái, du lịch văn hoá... để trở thành một khu du lịch tổng hợp tầm cỡ quốc
gia.
Thứ hai, trong quan điểm đường lối chính sách của các cấp chính quyền từ
tỉnh đến huyện đều xác định du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong cơ
cấu kinh tế. Như vậy, về mặt nhận thức du lịch đã được đánh giá đúng với vị trí,
vai trò cũng như những đóng góp của nó đối với cơ cấu kinh tế - xã hội của địa
47
phương. Từ đó du lịch sẽ nhận được sự đầu tư thích hợp tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển bền vững.
Thứ ba, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm khá tốt cũng
là một điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý du lịch ở đây khi nó có một
môi trường rất tốt để triển khai các chủ trương, chính sách quản lý.
Thứ tư, vì gắn liền với khu vực nội thành Hà Nội, là cửa ngõ cho các tỉnh
đi vào trung tâm thủ đô nên khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) có nhiều thuận lợi trong
việc nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng - kỹ thuật hiện đại.
Thứ năm, là một trong những trung tâm văn hoá của cả nước, với truyền
thống hiếu học lâu đời nên khu vực này có được một nguồn nhân lực dồi dào với
chất lượng ngày càng nâng cao. Đây là một lợi thế rất lớn để vùng phát triển du
lịch.
2.5.
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƢỚNG BỀN VỮNG
2.5.1. Tình hình tăng trƣởng
2.2.1.1. Cơ sở vật chất cho phát triển du lịch
* Về cơ sở lưu trú phục vụ du lịch :
Là ngành kinh tế tương đối mới mẻ, cơ sở lưu trú du lịch của Hà Tây (cũ)
không có được bề dày truyền thống từ thời điểm xây dựng nhà nghỉ, khách sạn
phục vụ chuyên nghiệp như một số địa phương khác, một số cơ sở lưu trú tập
trung tại khu vực Ba Vì được xây dựng từ thời Pháp thuộc nay đã hết thời gian
sử dụng. Vì vậy, trong thời gian qua cơ sở lưu trú du lịch Hà Tây không có sự
tăng trưởng lớn. Từ năm 2005 đến năm 2007, Sở Du lịch Hà Tây đã thẩm định
và cấp giấy chứng nhận 17 cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn.
Bảng 2 : CƠ SỞ LƢU TRÚ PHỤC VỤ DU LỊCH
Ở HÀ TÂY (CŨ) NĂM 2007
KHÁCH SẠN, NHÀ NGHỈ
SỐ LƢỢNG
48
SỐ BUỒNG, PHÒNG
Tổng số
17
672
Khách sạn tiêu chuẩn 2 sao
09
341
Khách sạn tiêu chuẩn 1 sao
04
147
Nhà nghỉ
04
184
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Chất lượng các khách sạn, nhà nghỉ cũng được nâng lên đáng kể. Năm
2004, số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn sao là 6 đơn vị, trong đó có 04 khách
sạn 2 sao, 02 khách sạn 1 sao thì đến năm 2007 có thêm 05 khách sạn đạt tiêu
chuẩn 2 sao và 02 khách sạn 1 sao. Các cơ sở lưu trú du lịch đã quan tâm nhiều
hơn đến chất lượng buồng, phòng, chất lượng các dịch vụ bổ sung và chất lượng
lao động.
Trong năm 2008 hàng loạt các khu du lịch đang được nâng cấp cải tạo
như : khu du lịch Ao Vua và Đầm Long đang tiến hành thi công xây dựng khách
sạn 3 sao với 70 phòng nghỉ ; Khách sạn Anh Quân đang tiến hành cải tạo nâng
tổng số phòng nghỉ lên 110 phòng đạt tiêu chuẩn 4 sao ; Công ty cổ phần Du
lịch Hà Tây cũng đang nâng cấp khách sạn Nhuệ Giang lên đạt tiêu chuẩn 4 sao
và văn phòng cho thuê, giải quyết tình trạng thiếu nhà nghỉ cao cấp cho khách
khi tham quan, nghỉ dưỡng trên địa bàn. Ngoài ra, khu vực Hà Tây (cũ) cũng
mời được một số nhà đầu tư nâng cấp và phát triển thêm các khu du lịch.
Bảng 3: DỰ ÁN ĐẦU TƢ DU LỊCH
(Giai đoạn 2006 - 2010)
49
TT
1
2
3
4
5
6
7
Tên dự án
Tổng cộng
Dự án đầu tư khu du lịch
sinh thái và vui chơi giải
trí Tuần Châu - Hà Tây
Dự án đầu tư khu du lịch
sinh thái cao cấp Sài Sơn
Dự án đầu tư khu du lịch
sinh thái cao cấp An
Khánh
Dự án đầu tư sân gofl và
khu phụ trợ hồ Văn Sơn
Dự án đầu tư khu du lịch
sinh thái hồ Xuân Khanh
Dự án đầu tư xây dựng
khu nghỉ mát cây Bồ Đề,
hồ Đồng Mô
Dự án đầu tư điểm du
lịch sinh thái Song
Phương
Chủ đầu tƣ
Diện tích
đất (ha)
602,3
Công ty TNHH Tuần
Châu - Hà Tây
233,2
Công ty CP D&S
30,2
Công ty DVĐT&DL Nghi
Tàm
30,0
Công ty TNHH DK ENC
(Hàn Quốc)
Công ty CP Hồng Việt
183,7
83,4
Công ty CP DELEO
28,5
Công ty CP Phương Viên
13,3
Tổng vốn
đầu tƣ
(tỷ đồng)
3.095
Thời gian
triển khai
2.000 2006 2010
100 2006 2010
343
2004 2008
350 2006 2010
110 2005 2008
57
2005 2008
135
2005 2008
(Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây)
Cơ sở lưu trú du lịch Hà Tây (cũ) hiện nay phải đối mặt với hai vấn đề cơ
bản: đóng vai trò là điểm phụ cận, hỗ trợ du lịch Hà Nội: hợp tác, liên kết với
các đơn vị kinh doanh du lịch của Hà Nội (cũ), nhằm tận dụng môi trường trung
tâm nhận khách quốc tế để tuyên truyền, quảng bá giới thiệu về du lịch Hà Tây
(cũ); là điểm du lịch hỗ trợ cơ sở lưu trú khi lượng khách đến thủ đô quá tải và
đòi hỏi các điểm lưu trú, các dịch vụ du lịch phụ cận bổ sung cho những điểm
của Hà Nội.
Những đặc điểm trên có tác động không nhỏ đến thực tế phát triển cơ sở
lưu trú khu vực Hà Tây trong những năm qua và góp phần định hướng cho việc
hình thành hệ thống cơ sở lưu trú trên địa bàn. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu
cầu khách quốc tế và là điểm cơ sở lưu trú hỗ trợ, vấn đề chất lượng, giá cả
buồng phòng và các dịch vụ du lịch khác như lữ hành, điểm du lịch…cần được
50
đồng bộ và đạt tiêu chuẩn tương đương với khu vực trung tâm trong thời gian
tới.
*Về cơ sở hạ tầng :
Hệ thống quốc lộ của Hà Tây (cũ) khá phát triển và thuận tiện cho việc giao
lưu với các địa phương. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển
khách du lịch cũng như kết nối tour du lịch với các điểm du lịch khác trong vùng
Bắc Bộ như: Đền Hùng, thuỷ điện Hoà Bình...Trong những năm qua đã có sự
đầu tư nâng cấp hệ thống đường giao thông phục vụ du lịch và bước đầu đã mở
rộng nâng cấp được một số tuyến giao thông như đường vào khu du lịch Suối
Hai, Đồng Mô, đường 21B đi Chùa Hương... và đường giao thông vào một số
làng nghề. Những tuyến đường này bước đầu đã phát huy tác dụng tạo điều kiện
đi lại thuận lợi cho du khách và nhân dân địa phương. Hệ thống điện tương đối
phát triển, hầu hết các khu du lịch đều có đường điện vào đến tân nơi. Tuy
nhiên, tại một số điểm du lịch chưa có trạm biến áp riêng, phải sử dụng chung
với hệ thống điện sinh hoạt của dân cư nên điện áp chưa đảm bảo. Hệ thống
thông tin liên lạc ở các khu vực du lịch khá phát triển, mạng điện thoại hữu
tuyến được phát triển đến tận các khu du lịch, điện thoại di động được phủ sóng
đã đáp ứng được yêu cầu thông tin liên lạc của du khách.
2.2.1.2. Lực lƣợng lao động trong ngành du lịch
Lao động của ngành du lịch về cơ bản được phân chia thành hai loại : lao
động quản lý và lao động trực tiếp. Lao động quản lý liên quan đến kỹ năng điều
hành, tổ chức xây dựng sản phẩm du lịch. Lao động trực tiếp là những người
tiếp xúc với khách, thực hiện các dịch vụ nhỏ lẻ để cấu thành lên sản phẩm du
lịch. Du lịch chủ yếu là ngành dịch vụ, vì vậy chất lượng lao động trực tiếp đóng
vai trò rất quan trọng tạo nên chất lượng sản phẩm. Đối với những đối tượng lao
động trong ngành chất lượng được đánh giá không chỉ thông qua khả năng đáp
ứng nhu cầu thực của khách mà còn được xem xét ở khía cạnh như các kỹ năng
51
giao tiếp, thái độ tác phong phục vụ… nhằm xây dựng được ấn tượng tốt đẹp về
sản phẩm đối với khách du lịch.
Số lượng đội ngũ lao động ngành du lịch khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) trong
thời gian qua có sự gia tăng lớn, năm 2002 đạt 1.650 người, năm 2004 đạt 2000
người. Số lao động trong ngành năm 2006 tăng lên rõ rệt khoảng 2.550 người,
vượt 5% kế hoạch được giao. Năm 2007 tổng số lao động trong toàn ngành có
tính chuyên nghiệp khoảng 2.910 người. Hà Tây (cũ) là vùng có nhiều tài
nguyên du lịch, các hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi, số lượng lao động của
ngành này tuy tăng trưởng khá nhanh nhưng vẫn chỉ bằng 8% so với số lao động
cùng ngành tại khu vực Hà Nội (cũ), bằng 3,6% tổng số lao động trong ngành du
lịch của vùng du lịch Bắc Bộ và chiếm 2,1% tổng lao động trực tiếp trong ngành
du lịch trên toàn quốc (năm 2007). Với số lượng khách lớn như hiện tại thì số
lượng lao động này là không tương xứng. Tuy nhiên, đặc điểm của du lịch Hà
Tây lại không thu hút được khách lưu trú nhiều, do số khách đi về trong ngày
đông và lại tập trung vào một số thời điểm lễ hội, các tháng hè nên số lượng lao
động để phục vụ cũng có tính chất khác so với các điểm du lịch tương tự, ít lao
động trong khách sạn nhà hàng hơn, nhiều lao động gián tiếp hơn. Với số lượng
lao động được thống kê tại Sở Du lịch Hà Tây chủ yếu thuộc các công ty do Sở
quản lý. Trong số này 70% đã qua đào tạo nghiệp vụ du lịch, 48% biết ngoại
ngữ, đủ giao tiếp ở mức sơ đẳng. Trình độ đại học hiện tại chiếm tỷ lệ 12,5% .
Ngành du lịch Hà Tây hàng năm chủ động lên kế hoạch và liên hệ với một
số trường đại học lớn có khoa du lịch, hoặc trường chuyên ngành du lịch để tiến
hành đào tạo cho lực lượng lao động trong ngành du lịch và người dân tại các
điểm du lịch. Quan tâm đến nguồn nhân lực quản lý thông qua cử cán bộ đi học
các lớp nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn. Từ đầu năm 2007 đến đầu năm 2008,
ngành đã tổ chức 5 lớp tập huấn, trong đó có 1 lớp bồi dưỡng kiến thức cho 30
thuyết minh viên, 1 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho 70 cán bộ
52
phụ trách du lịch tại các phòng chuyên môn của Sở Du lịch và các huyện, thành
phố. Mở 3 lớp về văn hoá du lịch cho gần 900 cán bộ và nhân dân ở các xã trọng
điểm về du lịch, nâng cao chất lượng đội ngũ thuyết minh viên tại các điểm du
lịch như chùa Thầy, làng Việt cổ Đường Lâm, các làng nghề truyền thống.
Lao động hoạt động trong du lịch chủ yếu là nguồn lao động địa phương,
thậm chí chỉ là những người trong gia đình tự tổ chức cùng nhau kinh doanh.
Một đoàn khách du lịch đi thăm các di tích, ngoài hướng dẫn viên theo đoàn thì
tỷ lệ phục vụ khách du lịch là 2,7người/khách.Từ những khảo sát thực tế có thể
rút ra một số tính chất, đặc trưng của lực lượng lao động trong ngành du lịch tại
khu vực tỉnh Hà Tây (cũ):
- Đội ngũ lao động trong ngành chưa thực sự ổn định do tính mùa vụ của
du lịch. Không chỉ tính riêng lao động trong ngành du lịch mà yếu tố này cũng
tồn tại cả trong hoạt động sản xuất hàng năm của các đơn vị, doanh nghiệp kinh
doanh du lịch. Tỷ lệ lao động ổn định cả năm trung bình chiếm 42,74% tổng số
lao động, mức độ giao động lao động giữa mùa vụ và không chính vụ chênh lệch
khoảng 36,55 người/đơn vị. Tuy nhiên do đặc điểm không gian là ở nông thôn,
vì vậy, lao động có thể huy động được dễ dàng và bổ khuyết lúc cần thiết.
- Chất lượng chuyên môn và nghiệp vụ không đảm bảo, do lực lượng lao
động chưa được đào tạo bài bản, kiến thức về du lịch còn hạn chế và chỉ được
đào tạo thông qua một số lớp do Sở Du lịch tổ chức, đặc biệt lao động còn yếu
về ngoại ngữ và ít hiểu biết về văn hoá các nước trên thế giới.
- Chưa có nhiều lao động chuyên nghiệp trong ngành du lịch, không ít
người hoạt động trong ngành du lịch chưa thể sống bằng thu nhập do ngành
mang lại, chủ yếu tồn tại lao động dưới hình thức cộng tác viên theo thời vụ.
53