Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.18 KB, 98 trang )
loại sản phẩm có thị trường và có hiệu quả kinh tế cao (gạo, thuỷ hải sản, cây cà
phê, cao su…), quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định, đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực. Các ngành công nghiệp nâng cao chất lượng cạnh
tranh, tạo ra được nhiều hàng hoá xuất khẩu và thu hút được nhiều lao động.
Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta cũng phải đối mặt với nhiều hạn chế. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế còn chậm hơn so với khả năng. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ,
thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Tuy đã có nhiều cố gắng đầu tư, song
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn lạc hậu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển. Đặc biệt là từ năm 2007 đến nay nền kinh tế Việt Nam rơi
vào lạm phát với tốc độ đáng lo ngại. Chỉ số gia tiêu dùng (CPI) hàng tháng so
với tháng trước liên tục tăng cao. Tốc độ tăng CPI tháng 3/2008 so với tháng
12/2007 là 9,19%. Đây cũng là tốc độ tăng kỷ lục của 16 năm kể từ năm 1993
đến nay. Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trong năm 2008 là hơn 20%. Thế nhưng do
tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu mà trước hết là ở những nước phát triển
đã dẫn đến xuất hiện các dấu hiệu của tình trạng giảm phát. Đây cũng là một trở
ngại lớn cho sự phát triển của du lịch. Tình trạng thất thường của chỉ số CPI ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế nói chung ảnh hưởng tiêu cực đến phát
triển du lịch nói riêng. Thêm vào đó, nhân dân phải hứng chịu nhiều thiên tai,
dịch bệnh nặng nề. Sức tàn phá của các cơn bão, lũ lụt ngày càng lớn. Khí hậu
khắc nghiệt, thay đổi thất thường. Dịch cúm gia cầm, “lở mồm, long móng”,
“lợn tai xanh”… làm cho hàng triệu gia xúc, gia cầm, vật nuôi bị tiêu huỷ làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân cư. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Thêm vào đó tình hình thế giới cũng có nhiều chuyển biến phức tạp, nền kinh tế
của nhiều quốc gia cũng đang rơi vào tình trạng suy thoái như Mỹ, Anh, Thái
Lan… đã gây những tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Lượng khách
quốc tế đến Việt Nam trong thời gian tới có thể giảm, lượng khách du lịch nội
địa cũng sẽ giảm khi cơn bão suy thoái ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam.
72
Nằm trong bối cảnh đó, để theo kịp xu hướng phát triển chung và giải
quyết những khó khăn riêng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã ban hành
Chương trình hành động của Bộ (kèm theo Quyết định số 331/QĐ-BVHTTDL
ngày 22/3/2008) nhằm thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ ban
hành kèm theo Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP của Chính phủ về một số chương
trình, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Trong
Chương trình hành động này “mục tiêu cụ thể là phát huy tối đa sức mạnh, lợi
thế và tiềm năng, đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ hoạt động giữa các lĩnh vực Văn
hoá, Thể thao và Du lịch để phấn đấu đạt và vượt kế hoạch mục tiêu - chiến lược
của ngành đã đề ra, làm tốt vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội trong
thời kỳ hội nhập. Đảm bảo xây dựng và phát triển ngành Văn hoá, Thể thao và
Du lịch mang đậm đà bản sắc truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu có lựa
chọn những thành tựu văn minh, tiên tiến của thế giới. Tăng cường hội nhập
kinh tế và mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế, chủ động đẩy mạnh công tác thông
tin đối ngoại, quảng bá văn hoá, xúc tiến du lịch trong quá trình hội nhập toàn
diện vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam… Bảo tồn, nâng cao giá trị và bản
sắc văn hoá dân tộc, xây dựng một nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, luôn
gắn kết với việc bảo vệ các giá trị văn hoá (vật thể và phi vật thể) với việc khai
thác và phát huy giá trị văn hoá, kết hợp và khai thác các thế mạnh đan xen của
văn hoá dân tộc với phát triển du lịch để làm phong phú các hoạt động du lịch,
tạo tính mới mẻ, độc đáo, hấp dẫn thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong
nước và quốc tế đến Việt Nam, tìm hiểu truyền thống văn hoá, đất nước, con
người Việt Nam”. Đồng thời Chương trình hành động này cũng nhấn mạnh đến
vấn đề bảo vệ môi trường và phối hợp liên ngành để phát triển bền vững ngành
Du lịch: “phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng đề án bảo vệ môi
trường, nâng cao năng lực quan trắc, ứng phó với các sự cố môi trường tại các
khu du lịch quốc gia; nghiên cứu đề án ứng phó với khủng hoảng, rủi ro trong du
73
lịch, đặc biệt là thiên tai và dịch bệnh; lồng ghép chương trình bảo vệ môi
trường của ngành Du lịch vào kế hoạch đào tạo, phổ biến thông tin và thực hiện
các biện pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ môi trường của
ngành…”
Đặc biệt hơn, từ ngày 1/8/2008, Chính phủ đã ra quyết định sát nhập toàn
bộ địa bàn của tỉnh với thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội của cả nước. Sự kiện này đã mở ra một trang mới cho phát triển kinh tế - xã
hội nói chung, phát triển du lịch nói riêng cho khu vực Hà Tây (cũ). Ngành du
lịch Hà Tây (cũ) sẽ có điều kiện phát triển hơn nữa. Vì hàng năm có rất nhiều
lượt khách từ Hà Nội (cả khách nội địa và khách quốc tế) sau khi thăm viếng các
điểm du lịch ở trung tâm Hà Nội đã tiếp tục hành trình đi thăm quan, du lịch ở
Hà Tây (cũ). Ngành du lịch của khu vực Hà Tây (cũ) cũng có rất nhiều thuận lợi
để nâng cao trình độ văn hoá, kỹ năng giao tiếp, quản lý... cho lao động. Khi đã
trở thành một bộ phận của Hà Nội thì ngành du lịch của khu vực tỉnh Hà Tây cũ
sẽ được đầu tư theo chiều sâu nhiều hơn. Nhờ đó du lịch khu vực tỉnh này sẽ có
những bước tiến vững chắc hơn, doanh thu của ngành du lịch sẽ tăng lên, lao
động có thêm thu nhập, cuộc sống của cộng đồng dân cư được cải thiện đáng kể.
Nhưng du lịch khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) cũng phải đổi mặt với một số khó khăn
trước mắt khi mà ngành du lịch của Hà Nội (mới) chưa thực sự trở thành một
chỉnh thể. Đó là các đơn vị kinh doanh du lịch ở khu vực này sẽ phải chịu sự
cạnh tranh rất gay gắt với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Hà Nội (cũ).
Vì các đơn vị kinh doanh này đã có nhiều kinh nghiệm và tiềm lực kinh tế tương
đối tốt. Nhưng đây chỉ là những khó khăn trước măt, nếu như các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch của khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) kịp thời điều chỉnh, đổi mới
phương thức hoạt động của mình thì sự sát nhập này lại là lợi thế lâu dài của họ.
Bối cảnh mới trên đây đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của du lịch
theo hướng bền vững ở khu vực tỉnh Hà Tây (cũ). Về mặt tích cực, lượng khách
74
trong và ngoài nước đến với Hà Tây (cũ) sẽ tăng lên, hoạt động đầu tư cho du
lịch cũng sôi động hơn với nhiều dự án xây dựng các khu du lịch tổng hợp, nhà
hàng, khách sạn cao cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng được thực hiện. Một số doanh
nghiệp lữ hành quốc tế sẽ có điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động, lập thêm
chi nhánh. Đồng thời bối cảnh này cũng mở cho du lịch ở khu vực tỉnh Hà Tây
(cũ) nhiều khó khăn và thách thức mới.
3.5.
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở HÀ NỘI
HIỆN NAY
* Phát triển du lịch bền vững về môi trường tự nhiên và văn hoá xã hội:
Với tốc độ phát triển nhanh chóng và sự đóng góp to lớn của ngành du lịch;
những lợi ích mang lại cho đất nước, cho địa phương là không thể phủ nhận.
Ngược lại du lịch cũng mang lại những hậu quả khó lường đối với các tài
nguyên du lịch, môi trường sinh thái cũng như tác động không nhỏ đến lối sống
và nền văn hoá dân tộc. Vì vậy, công tác quy hoạch, kế hoạch và xúc tiến phát
triển du lịch cần phải được tiến hành một cách cân nhắc và khoa học, xác định
mục tiêu phát triển ngành là: “Phát triển du lịch một cách bền vững đảm bảo sự
phát triển của ngày hôm nay và không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác
của thế hệ tương lai”.
* Phát triển du lịch Hà Nội phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố và phải được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với
du lịch các tỉnh khác.
Phát triển du lịch dựa trên cở sở thống nhất với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, vùng và của ngành nhằm tạo dựng một mục
tiêu chung mang tính tổng quát và đồng bộ giữa các địa phương, tránh hiện
tượng phát triển cục bộ, manh mún, sự phát triển của ngành này ảnh hưởng đến
hoạt động của các ngành khác. Không thể tách rời quyền lợi của một địa
phương, một ngành với lợi ích chung của đất nước. Nhu cầu của khách du lịch
75
thường đa dạng, từ đó dẫn đến sự hình thành hệ thống sản phẩm du lịch rộng
lớn; nếu không có sự liên kết khai thác tài nguyên sẽ hạn chế khả năng đa dạng
hoá các sản phẩm và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, với
yêu cầu quản lý, hợp tác khai thác nguồn tài nguyên du lịch cần có sự liên hệ
chặt chẽ liên vùng giữa các địa phương. Đối với Hà Nội cần nhấn mạnh mối
quan hệ đối với các trung tâm du lịch của vùng du lịch Bắc bộ như Hải Phòng,
Quảng Ninh và các tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch lân cận: Ninh Bình, Hoà
Bình, Bắc Ninh…
* Phát triển du lịch phải dựa trên sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các
ngành.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, để phát triển được cần có sự phối
hợp đồng bộ của nhiều ngành như nông nghiệp, giao thông, công nghiệp, bưu
chính viễn thông, điện, tài nguyên môi trường, văn hoá, y tế, giáo dục… do đó
cần phải có nhận thức đúng đắn về phát triển du lịch trong tất cả các cấp, các
ngành, từ đó có sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ để đưa việc phát triển du lịch trở
thành nhiệm vụ chung của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi người dân Hà Nội. Có như
thế mới thúc đẩy được du lịch Hà Nội phát triển và đạt được những mục tiêu đề
ra.
* Phát triển du lịch phải gắn với việc bảo đảm an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội:
Du lịch là ngành ngoại giao thứ hai của đất nước, của địa phương. Hoạt
động du lịch làm tăng cường khả năng mở rộng giao lưu, trao đổi văn hoá của
đất nước với quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động du lịch với tư cách là một ngành
kinh tế - xã hội mang tính mở vì vậy cần phải xác định một cách rõ ràng rằng:
phát triển du lịch nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo môi trường thân
76
thiện cho giao lưu văn hoá giữa các dân tộc nhưng phải đảm bảo được về mặt an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
3.6.
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƢỚNG BỀN VỮNG Ở
KHU VỰC TỈNH HÀ TÂY CŨ (NAY THUỘC HÀ NỘI)
3.6.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển du lịch
Vấn đề lập quy hoạch hợp lý, cụ thể để bảo tồn và tôn tạo các tài nguyên
du lịch là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự thành công của du lịch khu
vực Hà Tây (cũ) trong hiện tại và cả trong tương lai.
Tập trung nâng cao chất lượng quản lý thực hiện quy hoạch. Tổ chức công
bố, tuyên truyền rộng rãi trên mạng Internet, trên các phương tiên thông tin đại
chúng... các quy hoạch đã được phê duyệt. Phát huy vai trò của cộng đồng dân
cư trong việc xây dựng và quản lý quy hoạch. Đối với một số quy hoạch lớn,
quan trọng, cần có sự tham gia của các chuyên gia quốc tế hoặc do các tổ chức
tư vấn quốc tế thực hiện.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Tây (cũ) đến năm 2010
đã được phê duyệt, tiến hành rà soát lại những quy hoạch đã có, hoàn thành dứt
điểm những quy hoạch còn dở dang; chuẩn bị triển khai quy hoạch các khu du
lịch trọng điểm còn chưa có quy hoạch nhất là tại cụm Sơn Tây - Ba Vì và khu
vực ven đô, theo hướng: Cụm Sơn Tây - Ba Vì: Phát triển du lịch sinh thái, nghỉ
dưỡng, nghỉ cuối tuần, vui chơi giải trí, hội nghị, hội thảo tại các điểm du lịch
xung quanh núi Ba Vì, hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô, Đường Lâm kết hợp khai thác
các giá trị văn hoá xứ Đoài; Cụm Hà Đông và phụ cận: Khai thác lợi thế ven đô,
tập trung phát triển thành một trung tâm dịch vụ hội nghị hội thảo, khách sạn
cao cấp, các khu vui chơi giải trí hiện đại và du lịch làng nghề kết hợp du lịch
văn hoá; Cụm Hương Sơn - Quan Sơn: Khai thác du lịch văn hoá lễ hội tại
Hương Sơn và du lịch sinh thái tại hồ Quan Sơn. Sở Văn hoá - Thể thao - Du
lịch Hà Nội cần phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng
77
phương án giải quyết nước tưới trong lưu vực các hồ chứa nước lớn trên địa bàn
Hà Nội để chuyển dần sang phục vụ phát triển du lịch và đề án khai thác lợi thế
Vườn quốc gia Ba Vì để phát triển du lịch sinh thái (trước mắt tập trung vào 6
điểm là Bản Di, Bản Cốc, suối Cái - đền Trung, chùa Kho - suối Mít, suối Bóp
và khu vực từ cos 400 - 800 phía sườn đông).
3.6.2. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tƣ phát triển du lịch
Nguồn vốn đầu tư là cơ sở để xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ
thuật du lịch, đánh thức tiềm năng du lịch thành hiện thực kinh doanh khai thác
du lịch. Trên cơ sở quy hoạch cụ thể cần xác lập những cơ chế phù hợp khuyến
khích cả đầu tư nước ngoài và trong nước (cả khu vực Nhà nước và tư nhân)
cũng như danh mục các dự án ưu tiên đầu tư phát triển du lịch. Để hoạt động
đầu tư vào ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Tây (cũ) đạt hiệu quả lâu dài
ngành du lịch Hà Nội cần phải:
- Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cơ bản;
quan tâm đến hệ thống đường xá, điện, nước, bưu điện, y tế và các dịch vụ công
khác nhằm kích thích đầu tư từ bên ngoài và tạo tâm lý ổn định cho du khách
cũng như doanh nghiệp.
- Đầu tư vào những điểm có khả năng phát triển du lịch cao, quy mô lớn và
có khả năng mở rộng trong tương lai nhằm tránh sự phát triển nhỏ lẻ, không hiệu
quả. Xác định đầu tư phải theo mức độ ưu tiên cho các điểm giàu tiềm năng, cơ
sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu cần có, và theo yêu cầu xây dựng sản
phẩm du lịch chủ đạo của ngành.
* Đầu tư xây dựng cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch:
- Từ nguồn vốn chương trình đầu tư hạ tầng du lịch của Tổng cục Du lịch:
Tích cực khai thác nguồn vốn này đầu tư để xây dựng hạ tầng các khu, điểm du
lịch trọng điểm, ưu tiên thực hiện các dự án đầu tư:
78
- Từ nguồn vốn ngân sách thành phố và các nguồn vốn khác: Có kế hoạch
chỉ đạo đầu tư, bố trí vốn đầu tư để đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, mạng
lưới điện, bưu điện... tại hai khu du lịch chuyên đề quốc gia. Cụ thể:
+ Đối với khu di tích thắng cảnh du lịch Hương Sơn:
Đầu tư cải tạo nâng cấp đường 425 (74 cũ) từ cầu Đục Khê đến cầu Yến Vĩ;
cải tạo nạo vét đoạn suối Yến từ cầu Yến Vĩ ra sông Đáy; xây dựng 02 trạm xử
lý cấp nước sạch sinh hoạt tại khu vực Đục Khê và Thiên Trù và xây dựng lò đốt
rác thải trong khu vực Thiên Trù; lắp đặt mới và nâng cấp các trạm thu phát
sóng di động tại khu vực Thiên Trù.
+ Đối với khu du lịch hồ Suối Hai - núi Ba Vì:
Đầu tư cải tạo đường 414 (87 cũ), 415 (89 cũ); đầu tư xây dựng lưới điện
trung thế, hạ thế và trạm biến áp tại khu vực sườn tây núi Ba Vì; lắp đặt mới và
nâng cấp các trạm thu phát sóng di động tại khu vực sườn đông, sườn tây núi Ba
Vì.
* Đầu tư xây dựng các điểm, khu du lịch:
- Đối với các điểm du lịch hiện đang khai thác như Ao Vua, Khoang Xanh Suối Tiên, Thác Đa, Đầm Long - Bằng Tạ, hồ Tiên Sa... Do có vị trí đẹp nhưng
đầu tư chưa ngang tầm nên quy mô còn nhỏ, sản phẩm trùng lặp; cần chỉ đạo
khuyến khích các doanh nghiệp đang khai thác tiếp tục đầu tư theo hướng đầu tư
nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dịch vụ, tôn tạo cảnh quan môi
trường để khắc phục những điểm còn hạn chế.
- Đối với các dự án đã có nhà đầu tư vào đầu tư như dự án khu du lịch sinh
thái và vui chơi giải trí Tuần Châu - Hà Tây; dự án khu du lịch cao cấp An
Khánh; dự án sân gôn hồ Văn Sơn; dự án khu du lịch sinh thái hồ Xuân Khanh;
khu nghỉ mát cây Bồ Đề, hồ Đồng Mô...: Chỉ đạo đẩy nhanh quá trình thực hiện
các dự án này, đồng thời chủ động tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các
79
nhà đầu tư trong quá trình thực hiện để phấn đấu hoàn thành đưa vào khai thác
trước năm 2010.
- Đối với các dự án đang xúc tiến thu hút đầu tư vào đầu tư tại hai khu du
lịch chuyên đề quốc gia hồ Suối Hai - núi Ba Vì, Hương Sơn (Mỹ Đức), khu di
tích lịch sử văn hoá du lịch Đường Lâm, khu du lịch bắc hồ Đồng Mô, khu du
lịch hồ Quan Sơn, đầm Thượng Thanh, hồ Đồng Sương...: Cần công bố, giới
thiệu rộng rãi, chủ động tìm gọi các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư chiến lược
vào thực hiện các dự án này.
- Chủ động phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin đẩy nhanh tiến độ triển
khai dự án Làng văn hoá - du lịch các dân tộc Việt Nam, sớm hoàn thành một số
dự án thành phần đưa vào khai thác đón khách.
- Tăng cường chỉ đạo, đổi mới quản lý, gắn kết các hoạt động du lịch với
hoạt động văn hoá - thông tin; đồng thời với việc triển khai đầu tư trùng tu tôn
tạo di tích, xây dựng nhà điều hành hướng dẫn du lịch; đào tạo, duy trì đội ngũ
thuyết minh viên và tuyên truyền quảng bá... tại các điểm di tích lịch sử văn
hoá, lễ hội nhất là tại khu di tích thắng cảnh du lịch Hương Sơn để sớm được
công nhận là di sản văn hóa thế giới.
- Triển khai thí điểm đầu tư xây dựng 3 điểm làng nghề truyền thống gắn
với phát triển du lịch là Sơn Đồng, Phú Vinh, Chuyên Mỹ sau đó tiếp tục nhân
rộng ra 7 làng nghề còn lại trong danh mục 10 làng nghề đã được UBND tỉnh
Hà Tây (cũ) phê duyệt nhằm vừa tạo thêm các điểm du lịch mới, sản phảm du
lịch hấp dẫn nhất là đối với khách quốc tế, vừa đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ hàng
thủ công truyền thống. Nội dung đầu tư ở mỗi làng nghề là xây dựng nhà trưng
bày giới thiệu sản phẩm, hỗ trợ xây dựng điểm tham quan sản xuất sản phẩm;
đào tạo, duy trì đội ngũ thuyết minh viên và tuyên truyền quảng bá..., phương
thức đầu tư là Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm.
80
Để thực hiện xã hội hoá nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch cần chú trọng
tiến hành theo hướng: đối với vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, vốn quy hoạch và
hỗ trợ phát triển du lịch, chủ yếu huy động từ nguồn ngân sách của nhà nước.
Khai thác nguồn vốn đầu tư hạ tầng du lịch và lồng ghép các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương để đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở
hạ tầng đến các khu, điểm du lịch. Có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư tự bỏ
vốn xây dựng hạ tầng đấu nối đến các khu du lịch, sau đó thành phố hoàn trả
vốn đầu tư từ phần ngân sách Nhà nước thu được của hoạt động kinh doanh du
lịch về sau hoặc nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất. Tranh thủ nguồn kinh
phí từ Chương trình hành động quốc gia về du lịch để đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến quảng bá, phát triển nguồn nhân lực du lịch. Khai thác nguồn vốn từ các
Chương trình hợp tác quốc tế của Tổng cục Du lịch để tăng cường đầu tư cho
hoạt động du lịch của tỉnh; Còn đối với vốn đầu tư xây dựng các sản phẩm du
lịch ở các điểm và khu du lịch do các nhà đầu tư thực hiện sẽ huy động vốn tự
có, vốn vay, vốn liên doanh, liên kết của của nhà các nhà đầu tư ở trong và ngoài
nước. Khuyến khích các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vay vốn nhằm triển khai các dự án du lịch trên
địa bàn tỉnh với lãi suất ưu đãi, thủ tục nhanh gọn.
3.6.3. Phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định của sự phát triển. Do thực trạng nguồn
nhân lực hoạt động trong ngành du lịch khu vực tỉnh Hà Tây (cũ) còn quá thiếu,
lại yếu về năng lực, vì vậy phải có chính sách đào tạo và phát triển nguồn lực
thông qua các chương trình gồm đào tạo mới và đào tạo lại cho nguồn nhân lực
hiện có. Từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp
năng động và sáng tạo, đủ năng lực điều hành các hoạt động kinh doanh du lịch
hiệu quả, có chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt để thu hút nhân tài về
phục vụ cho ngành du lịch. Nhất thiết phải đào tạo ngay từ giai đoạn hiện tại
81
nhằm chuẩn bị cho tương lai đội ngũ cán bộ có năng lực chuyêm môn đáp ứng
yêu cầu đặt ra, có tư cách đạo đức, yêu nghề, hiểu biết về điều kiện thực tế của
tỉnh, về các quy luật vận động của du lịch, về những tác động của du lịch đối với
môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực cần phải chú trọng một số giải pháp sau:
- Tiến hành tổng kết, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động
du lịch từ huyện đến địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ các Ban Quản lý các
khu di tích, thắng cảnh, để có thể nắm được thực trạng toàn diện các mặt, các
đặc trưng phẩm chất, năng lực, các mặt còn yếu kém… từ đó, xây dựng các
phương án khắc phục kịp thời.
- Rà soát đánh giá lại số lượng, chất lượng, xây dựng kế hoạch và tổ chức
đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn và ngoại ngữ
cho đội ngũ cán bộ, lao động hiện có. Thường xuyên tổ chức tập huấn nội dung
quản lý Nhà nước về du lịch, về văn hoá du lịch cho đội ngũ cán bộ và nhân dân
ở các huyện, thị xã và các xã trọng điểm về du lịch.
- Tăng cường mở các lớp đào tạo về nghiệp vụ lễ tân, buồng, bàn, bar, bếp,
ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, lao động ở doanh nghiệp theo hình thức tại chỗ.
Đổi mới chính sách tạo nguồn và đào tạo cán bộ quản lý hoạt động du lịch từ
trên xuống dưới. Nâng cao chất lượng đào tạo, cải tiến nội dung đào tạo, phương
pháp đào tạo, hướng trọng tâm vào những kiến thức cơ bản cần thiết và nhất là
tạo cho cán bộ, nhân viên ngành du lịch có một hình ảnh đẹp từ trang phục đến
văn hoá ứng xử.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch tại
các điểm du lịch cả về số lượng và chất lượng. Trước mắt tập trung xây dựng,
củng cố đội ngũ thuyết minh viên ở một số khu, điểm du lịch văn hóa như:
Hương Sơn, chùa Thầy, chùa Tây Phương, Đường Lâm...
82