1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LÝ VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 109 trang )


Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Platôn (427-327 Tr.CN) khi bàn về vấn

đề Nhà nước đã cho rằng: Một Nhà nước lý tưởng là Nhà nước có những đạo

luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không

phải lợi ích của mỗi người cầm quyền.

Trong học thuyết triết học của mình, Platôn cho rằng: Xã hội được chia

làm 3 hạng người tương ứng với 3 phần của linh hồn con người. Nhà nước xuất

hiện từ sự đa dạng của nhu cầu của con người và từ đó xuất hiện các dạng phân

công lao động để thoả mãn nhu cầu ấy.

Vì vậy, trong xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau và do đó

không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người được. Công lý là ở chỗ mỗi

hạng người làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình

và biết phận mình

Arixtốt (384-322 Tr.CN) cho rằng: Việc phân chia giai cấp và địa vị giai

cấp là một trật tự tự nhiên. Công bằng là sự đối xử ngang nhau, bình đẳng chỉ đối

với những người trong cùng một giai cấp, còn những người ở giai cấp khác nhau

thì công bằng và bình đẳng giai cấp khác nhau.

Tômat Hôpxơ (1858-1679) nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa

duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: Con người là giống nhau mà tạo hoá đã ban

cho nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con người thì lại có

tính tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và công bằng

Từ sự phân tích đó, ông đã chỉ ra rằng: Để đi đến sự hoà hợp, công bằng

giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng trên để dàn xếp các

lợi ích cá nhân, đó là Nhà nước

Như vậy, Hốpxơ đã có tư tưởng duy vật về các hiện tượng xã hội. Tuy

nhiên, ông không thấy được Nhà nước cũng mang bản chất giai cấp của nó, trong



8



xã hội có đối kháng giai cấp, Nhà nước không thể nào thiết lập được sự công

bằng chung cho toàn xã hội

Imanuen Cantơ (1724-1804) đại biểu của nền triết học cổ điển Đức, ông

có những đóng góp hết sức to lớn vào tư tưởng công bằng xã hội. Theo ông,

công bằng xã hội bao gồm công bằng và bảo hộ, công bằng trong trao đổi và

công bằng trong phân phối. Trong đó công bằng trong phân phối là quan trọng

nhất. Đây là tư tưởng tiến bộ của ông mà sau này được nhiều người thừa kế

Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng: Xanhximông (người Pháp), Phuriê

(người Pháp) và Ô- Oen (người Anh) đã phê phán xã hội đương thời được xây

dựng trên nền tảng tư hữu- nguyên nhân của mọi bất công xã hội. Đồng thời các

ông đề ra việc xây dựng một xã hội mới mà trong đó nguyên tắc tối cao là mọi

người đều phải lao động, mọi người đều được hưởng thụ như nhau, xoá bỏ hết

mọi đặc quyền, đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng. Xã hội công bằng là

một điều kiện để đem đến sự công bằng cho tất cả các thành viên. Tuy nhiên, mô

hình xã hội mà các ông xây dựng ngay từ đầu đã biến thành những điều không

tưởng.

Như vậy, vấn đề công bằng xã hội đã được đề cập trong suốt quá trình lịch

sử của nhân loại, nó phản ánh sự đấu tranh của các giai cấp về quyền sở hữu tư

liệu sản xuất; tổ chức và quản lý sản xuất, xã hội; phân phối và sử dụng sản

phẩm lao động. Các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại đã trình bày những

quan niệm khác nhau về công bằng xã hội mặc dù chưa đầy đủ và hệ thống

nhưng những tư tưởng đó là tiền đề lý luận quan trọng, làm cơ sở cho việc

nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội cho các nhà tư tưởng sau này khi nghiên

cứu về vấn đề công bằng xã hội.



9



1.1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về công bằng xã hội

* Quan điểm của Các Mác

Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô ta”, Các Mác đã làm rõ nội dung của

nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã hội. Các Mác vạch rõ rằng, trong xã hội

xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản

xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản

phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ

nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng

lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội [30, tr.474-479]. Đó là một nguyên

tắc phân phối công bằng, vì ở đây tất cả những người sản xuất đều có quyền

ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang

nhau.

Ngoài giá trị làm rõ nội dung của nguyên tắc phân phối trong chủ nghĩa xã

hội , cái rất đáng chú ý trong toàn bộ sự phân tích về vấn đề này còn là ở chỗ,

qua sự phân tích ấy chúng ta thấy, Các Mác đã phân biệt rất rạch ròi công bằng

xã hội với bình đẳng xã hội.

Các Mác chỉ rõ rằng, trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội sự phân phối

công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được mà còn hàm chứa trong nó sự

chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã

hội vì: “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau

vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh hơn người kia,

người này vẫn giàu hơn người kia” [30, tr.479] thành thử “muốn tránh tất cả

những thiếu sót ấy thì quyền nói cho đúng ra là phải không ngang nhau, chứ

không phải là ngang nhau” [30, tr.479-480]. Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót

của nguyên tắc phân phối theo lao động- một thiếu sót “không thể tránh khỏi

trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản” [30, tr.480].



10



* Quan điểm của V.I.Lênin

Trong một số tác phẩm của mình, khi đề cập đến vấn đề công bằng xã hội

trong chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin cho rằng: “như thế là trong giai đoạn đầu của

xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội),

“pháp quyền tư sản” chưa bị xoá bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xoá bỏ một phần, chỉ bị

xoá bỏ với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành,

nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. “Pháp quyền tư sản” thừa nhận

tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. Chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản

xuất thành tài sản chung” [29, tr.116].

Đặc biệt, V.I.Lênin cũng rất chú ý đến công bằng trong phân phối lao

động. Ông cho rằng; “người nào không làm thì không có ăn”. Nguyên tắc này đã

được thực hiện “số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số lượng sản phẩm

ngang nhau” [29, tr.116].

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phải thiết lập những tiền đề

kinh tế ngày càng cao cho việc thực hiện công bằng xã hội, không thể có công

bằng xã hội đích thực trong một xã hội nghèo khổ, kém phát triển. Đồng thời,

chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đề cập đến một xã hội giàu có, của cải dư thừa nhưng

lại thiếu công bằng trong phân phối, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng

nhưng không phải là duy nhất để thực hiện công bằng xã hội; phải biết kết hợp

hài hoà, biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Đây là quan

điểm khác biệt cơ bản giữa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với những quan

điểm trước Mác về công bằng xã hội.

Bên cạnh đó, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ ra rằng, trong chủ nghĩa xã

hội thì công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò cơ sở và quyết định

các lĩnh vực khác như văn hoá, xã hội... cụ thể là về phương diện quan hệ giữa

cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) và hưởng thụ (được hưởng quyền lợi).



11



Trong chủ nghĩa xã hội, công bằng cơ bản là làm nhiều hưởng nhiều, làm

ít hưởng ít; sản phẩm được phân phối theo nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng

theo lao động”. Tuy nhiên, công bằng xã hội mà các ông chỉ ra ở đây là công

bằng xã hội mang tính tương đối, còn nhiều hạn chế, nó chỉ tồn tại ở giai đoạn

thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, xã hội này mới chỉ là giai đoạn quá

độ từ chủ nghĩa tư bản (một xã hội bất công bằng, bất bình đẳng) sang xã hội

cộng sản chủ nghiã (một xã hội có một sự công bằng tuyệt đối).

Do vậy, công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội còn nhiều khiếm khuyết

“nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã

hội cộng sản chủ nghĩa lúc nó vừa lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau

những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao gi ờ có thể ở một mức cao hơn chế

độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”

[31, tr.35-36]

Quan niệm về công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội sẽ bị thay đổi cùng

với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội để ra đời một xã hội cao hơn - xã hội cộng

sản chủ nghĩa. Sự hình thành xã hội cộng sản chủ nghĩa sớm hay muộn tuỳ thuộc

vào sự phát triển của sản xuất, sự phát triển của xã hội. Do vậy, công bằng xã hội

là một khái niệm mang tính lịch sử. Nó có thể biến đổi, ra đời và mất đi

Theo các ông, để xã hội đạt được công bằng thực sự, một cách tuyệt đối

chỉ khi con người không còn lệ thuộc vào phân công lao động nữa, lúc đó

khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay được rút ngắn tối đa , lao

động không còn là phương tiện để sinh sống nữa mà là một nhu cầu hoạt động và

phát triển. Khi đó, cá nhân được phát triển một cách toàn diện, sức sản xuất xã

hội sẽ có sự tiến bộ vượt bậc chưa từng có trong lịch sử, của cải trở nên dư thừa

“chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp



12



quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: Làm theo năng lực,

hưởng theo nhu cầu!” [31, tr.36].

Tóm lại: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong giai đoạn thấp

của chủ nghĩa cộng sản, mặc dù chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã được

thiết lập song phương thức phân phối tương ứng đó vẫn chưa đạt tới sự công

bằng thật sự. Đó mới chỉ là một bước tiến bộ nhất định bước đầu về công bằng

xã hội. Điều quan trọng là cùng với chế độ công hữu thì sản xuất càng phải phát

triển, mọi cá nhân phải có cơ hội phát huy mọi tiềm năng để vươn tới sự ngang

nhau về năng lực, điều kiện, khi đó mới có thể đạt được sự công bằng tuyệt đối

Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người luôn coi công

bằng xã hội gắn với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng

sản là phương thức duy nhất đúng hợp lòng người để thực hiện công bằng xã

hội: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không

phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên

quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình và hạnh

phúc” [22, tr.115].

Người viết: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản

và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân

dân, trước hết là nhân dân lao động... “chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người ăn

no, mặc ấm, tự do” [33, tr.22].

Người nói: “có khi vật tư hàng hoá không thiếu mà phân phối không đúng

thì gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối có 2

điều quan trọng luôn phải nhớ:

Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng



13



Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên” [32, tr.185].

Như vậy, theo chủ tịch Hồ Chí Minh thì “công bằng không có nghĩa là cào

bằng, bình quân chủ nghĩa, không có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó

dễ cung cùng điểm như nhau” [32, tr.143].

Từ sự xâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn Người khẳng định rằng

trong chế độ xã hội thực dân không có công bằng xã hội mà “... nhân dân chỉ có

nghĩa vụ, như nộp sưu, đóng thuế, đi lính, đi phu mà không có quyền lợi” [33,

tr.219].

. Công nhân, nông dân là những người chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất

cho xã hội, nhờ đó xã hội mới tồn tại và phát triển nhưng lại rất bất công vì họ

luôn là những người nghèo khổ, trong khi đó một số người lại “ngồi mát ăn bát

vàng”. Theo Người, nguyên nhân của sự bất công đó là “vì một số ít người đã

chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội” [34, tr.203].

Người kết luận rằng, công bằng xã hội chỉ có trong xã hội mới, dưới chế

độ dân chủ cộng hoà “nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi” [34, tr.219];

“Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động... Nhân dân lao động

là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hoá, đều bình

đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [37, tr.310].

Như vậy, công bằng xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được gắn

kết với bình đẳng xã hội, tức là mối quan hệ giữa quyền lợi với nghĩa vụ, bình

đẳng giữa nghĩa vụ với quyền lợi. Bình đẳng trước hết là bình đẳng về nghĩa vụ

và quyền lợi, bình đẳng giữa người với người trong việc thực hiện nghĩa vụ và

hưởng thụ quyền lợi ấy, đó chính là thực hiện công bằng xã hội.

Phân phối công bằng theo người là: “Làm nhiều hưởng nhiều

Làm ít hưởng ít,

Không làm không hưởng”

14



Đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong điều kiện nước ta hiện nay.

Do đó, sự bình đẳng của những người lao động trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ

và quyền lợi mà cụ thể là sự ngang nhau về địa vị làm chủ nước nhà, làm chủ tư

liệu sản xuất, bảo đảm cho mỗi người đều có thể phát huy mọi khả năng của

mình để vươn tới một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, công bằng xã hội không những chỉ là mục

tiêu mà còn là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước, là một yêu cầu

bức thiết của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất là trong điều kiện nền

kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Theo Người, không nhất thiết là kinh tế phải

phát triển ở trình độ cao thì mới thực hiện được công bằng xã hội “không sợ

thiếu, chỉ sợ không công bằng”.

Người nhấn mạnh: “chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng...

v.v... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm

thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em. Thế ta đã

đến đấy chưa? Chưa đến. Công bằng xã hội không thể làm mau được mà phải

làm dần dần” [35, tr.219]

Người kiên quyết chống lại chủ nghĩa bình quân, “đồng cam cộng khổ là

một tinh thần cần phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng.

Bình quân chủ nghĩa là gì? Là ai cũng như ai, bằng hết. Bình quân chủ nghĩa là

trái với chủ nghĩa xã hội, thế là không đúng” [35, tr.386].

Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, công bằng và bình đẳng là một

mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới, nó không phải là chủ nghĩa

bình quân cào bằng trong sự nghèo khổ. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không

ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, là phấn đấu:

Làm cho người nghèo thì đủ ăn



15



Người đủ ăn thì khá giả

Người khá giàu thì giàu thêm [33, tr.65]

Bên cạnh đó, Người rất quan tâm đến lợi ích cá nhân nhằm động viên mỗi

người không ngừng phấn đấu, cống hiến nhiều nhất cho xã hội, đồng thời đấu

tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân. Chính chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên gây ra

trăm thứ bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lãng phí, chủ quan...

mang tính cá nhân, không nghĩ tới lợi ích giai cấp, dân tộc.

Tuy nhiên, cũng cần phân biệt rằng, chủ nghĩa cá nhân khác lợi ích cá

nhân, nếu chống chủ nghĩa cá nhân mà lại vi phạm lợi ích chính đáng của cá

nhân thì sẽ dẫn đến sai lầm. Người khẳng định rằng: “Lợi ích cá nhân là nằm

trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể

được đảm bảo thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”

[36, tr.291]. Việc đảm bảo lợi ích chung tức là bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi

ích của mỗi cá nhân. Tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình” là thể

hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân, cá nhân với tập thể và cộng đồng.

Như vậy, Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng về công bằng xã hội khá

toàn diện và sâu sắc. Thực chất của công bằng xã hội, theo Người, là không gì

khác ngoài mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, ai làm nhiều thì hưởng

nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng (trừ những người già cả,

bệnh tật và trẻ em).

Người cũng chỉ ra rằng không nhất thiết phải xã hội giàu có thì mới thực

hiện công bằng xã hội mà ngay khi xã hội còn chưa thật giàu có vẫn thực hiện

được công bằng xã hội, tuỳ điều kiện kinh tế khác nhau. Người cũng phân biệt

công bằng xã hội khác với cào bằng, bình quân chủ nghĩa, nếu đồng nhất chúng

thì sẽ triệt tiêu động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế.



16



Người chỉ ra rằng, thực hiện công bằng xã hội là cả một quá trình, phải

làm từng bước một, tránh sự nôn nóng và sự trì trệ, ỷ lại, trông chờ. Cuối cùng

Người khẳng định: Công bằng xã hội là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà chúng

ta cần phải vươn tới, chỉ có xã hội xã hội chủ nghĩa mới thực sự đem lại công

bằng xã hội cho nhân dân lao động, phương thức duy nhất để thực hiện công

bằng xã hội là đi lên chủ nghĩa xã hội, công bằng xã hội là việc tạo ra điều kiện

cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của xã hội và hưởng

thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo quyền tự do của mỗi người

trong quan hệ gắn bó với cộng đồng.

Công bằng xã hội phải được thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết quan hệ

giữa phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, giải quyết hài hoà giữa

quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người. Công bằng xã hội là trách nhiệm chung

của Nhà nước, của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của nhân dân

và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi của mình

đối với Nhà nước và xã hội.

1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về công bằng xã hội

Ở Việt Nam, lich sử dân tộc cho thấy công bằng xã hội luôn là vấn đề có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trải qua gần

1000 năm Bắc thuộc và với những đặc điểm riêng trong quá trình hình thành

quốc gia, quan niệm công bằng xã hội của người Việt Nam không thể không chịu

ảnh hưởng của Nho giáo. Tuy nhiên, nó không phải là bản sao của hệ tư tưởng

đó trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Cũng là cách nhìn về vị thế bất công của con người trong xã hội phong

kiến, song cha ông ta lại có cái nhìn hết sức công bằng và lạc quan như:

Con vua thì lại làm vua

Con sãi ở chùa đi quét lá đa



17



Bao giờ dân nổi quan qua

Con vua thất thế lại ra ở chùa

(ca dao)

Hoặc khôi hài như:

Miệng nhà quan có gang có thép

Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm

(tục ngữ)

Không chỉ như vậy, quan niệm công bằng xã hội của Người Việt trong

lịch sử còn được thể hiện qua cách nhân dân ghi nhớ, tôn vinh các anh hùng và

những người có công với nước (truyền thuyết, đền thờ, lễ hội…); qua quy chế

tuyển dụng nhân tài (thi cử và tiến cử); qua chế độ đãi ngộ quan lại; qua chế độ

thưởng, phạt nghiêm minh và trong những quy định khác của pháp luật.

Tất nhiên, bên cạnh những nội dung tích cực, quan niệm công bằng xã hội

trong truyền thuyết của Người Việt cũng có không ít những yếu tố không tích

cực (cách nhìn bi quan, chủ nghĩa bình quân, đề cao lệ làng hơn phép nước…)

mà trong quá trình tiếp thu cần có sự “gạn đục khơi trong”.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc

Việt Nam sau gần 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật.

Khát vọng công bằng xã hội lớn nhất của nhân dân là đất nước độc lập, tự do đã

được thực hiện.

Cương lĩnh chính trị năm 1930 của Đảng cộng sản Việt Nam đã vạch ra

con đường đúng đắn nhất cho cuộc đấu tranh vì tiến bộ và công bằng xã

hội.Trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I, II, III, IV, V, công bằng xã

hội được thể hiện thông qua việc cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa,

thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô,



18



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×