1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 3 MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 109 trang )


Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đặt mục

tiêu công bằng, tiến bộ lên trên hết, coi đó là mục tiêu của mọi chính sách kinh tế

- xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn với mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội, vì

hạnh phúc cho con người. Ngược lại, công bằng xã hội có vai trò hết sức quan

trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một khi công bằng xã hội được

đảm bảo nó sẽ kích thích tính năng động, sáng tạo, thúc đẩy người lao động đem

hết nhiệt tình, sức lực và trí tuệ để tạo ra nhiều của cải cho xã hội.

Công bằng xã hội kích thích các nhà kinh doanh bỏ vốn đầu tư cho sản

xuất, kích thích các nhà quản lý phát huy năng lực và sáng kiến để hoàn thiện tổ

chức hợp lý hoá hoạt động sản xuất - kinh doanh. Vì vậy, công bằng xã hội phải

được thực hiện từng bước gắn với quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, cũng cần có một quan niệm công bằng xã hội phù hợp với đặc

điểm và điều kiện của Việt Nam khi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa. Đây là một yêu cầu cấp bách nhưng không dễ dàng. Tất nhiên,

chắc chắn là chúng ta không thể chấp nhận một quan niệm công bằng xã hội phi

giai cấp, ảo tưởng, tách rời tăng trưởng kinh tế hoặc trở lại chủ nghĩa bình quân

như trước đây.

Chính vì vậy, quan niệm công bằng xã hội ở nước ta hiện nay phải bao

hàm trong nó sự chấp nhận phân tầng xã hội, phân hoá giàu - nghèo như một

thực tế khách quan nhưng lại không thể để chúng trở nên vô giới hạn và tích tụ

chúng thành bất công xã hội.

Trong chiến lược phát triển của đất nước, chính sách công bằng xã hội

phải được thực hiện bảo đảm mục tiêu xoá đói, giảm nghèo và không hạn chế

làm giàu hợp pháp. Đồng thời, công bằng xã hội không phải là một khẩu hiệu

chính trị, đạo đức thuần tuý mà phải trở thành những quyết sách cụ thể nhằm

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. Một quan



71



niệm về công bằng xã hội với những tiêu chí như vậy sẽ có giá trị định hướng,

chỉ đạo tiến trình nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc quản lý xã hội theo

hướng kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.

Thực hiện công bằng xã hội không chỉ là một giải pháp xã hội mà là một

trong những nguyên tắc của chiến lược phát triển bền vững đất nước. Do vậy,

“công bằng xã hội vừa là mục tiêu trực tiếp vừa là hướng phấn đấu lâu dài trong

toàn bộ tiến trình phát triển” [46, tr.69].

Tuy nhiên, cũng không nên quan niệm tăng trưởng kinh tế và công bằng

xã hội phải “dàn hàng ngang” mà tiến. Trong từng giai đoạn hoặc trong từng

vùng nhất định, có thể nhấn mạnh hoặc ưu tiên cho từng mục tiêu với tư cách là

những nhân tố đi trước và tạo tiền đề.

Đối với nước ta, trong quá trình thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ và văn minh từ xuất phát đIểm kinh tế - xã hội yếu

kém, sự kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội là biện pháp tối ưu

nhất, có tác động tích cực thúc đẩy cả tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng

xã hội. Trong mỗi chính sách kinh tế cần vạch rõ mục tiêu xã hội của nó.Mặt

khác, đối với mỗi chính sách xã hội, cần thấy rõ những điều kiện kinh tế đảm

bảo và phải tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.

Chính sách kinh tế có mục tiêu cơ bản là hiệu quả sản xuất, kinh doanh,

nâng cao khối lượng giá trị tổng sản phẩm vật chất và chất lượng của nền kinh tế

quốc gia. Chính sách xã hội có mục tiêu cơ bản là hiệu quả xã hội, góp phần ổn

định xã hội và đẩy mạnh tiến bộ, công bằng xã hội. Tuy có mục tiêu riêng biệt,

trực tiếp của nó, nhưng cả chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều có mục

tiêu chung là nhằm phát triển xã hội, phát triển con người, đảm bảo công bằng về

nghĩa vụ và quyền lợi của công dân.



72



Nước ta đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

trong điều kiện đó, việc xác lập mối quan hệ cụ thể, hợp lý giữa chính sách kinh

tế và chính sách xã hội là bài toán vĩ mô mang tầm quan trọng chiến lược, góp

phần tích cực đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nhận thức đầy

đủ vai trò, vị trí của mối quan hệ đó, Đảng ta trong Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: “Chính sách xã

hội đúng đắn phải vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi

tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”

[12, tr.13].

Một chính sách xã hội đúng đắn phải là yếu tố của sự phát triển và nằm

trong sự phát triển, chứ không là cái đuôi đi sau chính sách kinh tế. Đầu tư cho

chính sách xã hội phải được nhìn nhận là đầu tư cho phát triển, giống đầu tư cho

chính sách kinh tế.

Thực tiễn cho thấy, tiến bộ, công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế không

những không tách rời nhau mà còn gắn kết với nhau và tác động quyết định lẫn

nhau. Sự tăng trưởng kinh tế và chính sách kinh tế đúng là cơ sở chủ yếu, là điều

kiện vật chất để thực hiện các mục tiêu xã hội và chính sách xã hội bằng những

giải pháp phù hợp sẽ tạo ra sự ổn định xã hội và động lực mạnh mẽ phát triển

kinh tế.

Việc thực hiện công bằng xã hội không thể thoát ly điều kiện, thực trạng

và tốc độ tăng trưởng kinh tế; nhưng tăng trưởng kinh tế tự nó không dẫn đến

tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, không thể tự nó giải quyết mọi vấn đề xã hội.

Vì vậy, không thể thụ động chờ đợi kinh tế phát triển rồi mới bắt tay vào giải

quyết các vấn đề xã hội. Chậm đổi mới chính sách xã hội và làm mất đi tính chủ

động trong giải quyết các vấn đề xã hội sẽ gây cản trở rất lớn cho sự phát triển

kinh tế, thậm chí thủ tiêu mọi thành quả thu được từ phát triển kinh tế.



73



Mặt khác, những mục tiêu trong chính sách xã hội vượt quá khả năng kinh

tế thực tế cũng sẽ trở thành gánh nặng làm trì trệ cỗ xe kinh tế. Và một khi

những mục tiêu xã hội bị phá sản sẽ gây ra những nhân tố làm rối loạn toàn bộ

đời sống kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã

hội phải được xác định trong cả định hướng chính sách ở tầm vĩ mô lẫn trong

phương án cụ thể. Đảng và Nhà nước ta không lựa chọn phương án chính sách

xã hội đi sau chính sách kinh tế vì bản thân kinh tế nước ta không phải là tăng

trưởng kinh tế tự do thuần tuý, lấy lợi nhuận bằng bất cứ giá nào. Chúng ta cũng

không chấp nhận phương án chính sách xã hội đi trước chính sách kinh tế, vì như

vậy, lại rơi vào tình trạng chủ quan duy ý chí.

Phương án lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta là tiến hành đồng thời và

kết hợp chặt chẽ chính sách xã hội và chính sách kinh tế, nghĩa là phải kết hợp

ngay từ đầu, trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển kinh tế với tiến bộ

và công bằng xã hội.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta còn ở quy mô và trình độ

thấp, để thực hiện sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội,

Đảng và Nhà nước ta phải tạo lập các điều kiện xã hội của phát triển kinh tế để

phát triển xã hội theo hướng phục vụ sự phát triển con người, tức là tạo ra một xã

hội công bằng, bình đẳng cho mỗi người, đồng thời tạo điều kiện phát triển cho

tất cả mọi người.

3.1.2. Thực hiện công bằng xã hội phải tính đến truyền thống dân tộc,

với nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn phát triển của đất nước

Hệ thống các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam bao gồm: Lòng yêu

nước nồng nàn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng

đồng gắn kết cá nhân - làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình

đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, tính giản dị trong lối sống, tinh



74



thần “tương thân, tương ái”, “thương người như thể thương thân”… Đây là

những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam

được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Trong những giá trị đó tiềm ẩn bí quyết của sức mạnh Việt Nam trong quá

khứ.Từ những giá trị đó, sức mạnh Việt Nam hiện đại vẫn có thể được khơi

nguồn mạnh mẽ nếu chúng được phát triển về nội dung và hình thức cho phù

hợp với mục tiêu phát triển của đất nước. Vì vậy, ở nước ta hiện nay, trong điều

kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công

bằng xã hội cần phải tính đến các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc.

Đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước chỉ có thể được phát huy

khi nó biết kế thừa và phát triển những giá trị công bằng của dân tộc trong quá

khứ để phục vụ những nhu cầu của hiện tại. Mặt khác, đảm bảo công bằng xã hội

cũng có nghĩa đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội có cuộc sống vật chất và

tinh thần tốt; đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội có cơ hội, điều kiện trong

việc tiếp cận các hoạt động kinh tế, xã hội tạo động lực phát triển kinh tế, ổn

định chính trị - xã hội. Đây là điều kiện quan trọng để phát huy và giữ gìn những

giá trị văn hoá truyền thống dân tộc.

Ngoài ra, việc thực hiện công bằng xã hội phải phù hợp với nhiệm vụ

chính trị đặt ra trong từng giai đoạn. Công bằng xã hội là một trong những mục

tiêu trọng yếu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở

nước ta. Đây là mục tiêu lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Trong mỗi giai đoạn cụ thể, giải quyết công bằng xã hội phải gắn với nhiệm

vụ chính trị đang nổi lên của giai đoạn đó.

Ví dụ: Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, công bằng xã hội thực

hiện phân phối bình quân nhằm đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên trong xã

hội và tập trung cho chiến tranh, nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội



75



công bằng xã hội là thực hiện phân phối theo lao động để nâng cao tính năng

động, sáng tạo của mọi người trong sản xuất, kinh doanh.

Hiện nay với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội trước hết phải thúc đẩy kinh

tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp và phải có chính sách đối với các gia đình có

công với cách mạng. Hơn nữa, giải quyết công bằng xã hội phải tuỳ vào từng địa

phương, đặc biệt quan tâm tới những địa phương có nhiệm vụ hàng đầu bảo vệ

Tổ quốc như: biên cương, hải đảo đồng thời tuỳ vào từng vùng có những vấn đề

nổi cộm để có những chính sách giải quyết công bằng xã hội phù hợp nhằm ổn

định chính trị.

3.1.3. Thực hiện công bằng xã hội phải gắn với việc thực hiện dân chủ

trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

Trong điều kiện xã hội phân chia giai cấp, trình độ và hiệu quả của việc

thực hiện công bằng xã hội được quy định bởi chế độ chính trị, Nhà nước và kiểu

tổ chức quản lý xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, chất lượng của sự thống nhất

chính sách kinh tế và chính sách xã hội theo hướng phát triển kinh tế là điều kiện

để thực hiện những mục tiêu xã hội. Thực hiện công bằng xã hội được quy định

trước hết bởi mức độ và chất lượng của quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội. Ở

nước ta hiện nay và trong thời gian tới, hiệu quả của việc thực hiện công bằng xã

hội gắn với quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào quá

trình thực hiện dân chủ rộng rãi trên mọi mặt của đời sống xã hội.

Nền dân chủ nước ta được thực hiện trong cơ chế tổng thể của hệ thống

chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”. Nhân

dân làm chủ, có nghĩa là nhân dân là chủ thể xây dựng chế độ mới với tất cả lợi

ích và trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ đối với đất nước, dân tộc. Đảng và

Nhà nước ta phải tạo điều kiện cho quần chúng lao động thực sự làm chủ, tự



76



quyết định vận mệnh của mình và của quốc gia, dân tộc mình. Đó là dân chủ của

đa số,đảm bảo chế độ dân chủ thống nhất với bản chất của chế độ xã hội chủ

nghĩa. Chỉ như vậy, dân chủ mới thực sự trở thành động lực của sự phát triển và

tiến bộ.

Ở nước ta hiện nay, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động thông

qua chế độ dân chủ đại diện kết hợp với thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp: dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Tuy nhiên, dân chủ phải đi đôi với kỷ

cương, kỷ luật, quyền lợi phải gắn liền với nghĩa vụ. Thực hiện tốt dân chủ sẽ có

tác dụng khơi dậy mọi sáng kiến, huy động mọi lực lượng tinh thần và vật chất

của nhân dân để phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời góp phần xây dựng Đảng,

chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, hạn chế và khắc phục tình trạng

quan liêu, tham nhũng…

Xây dựng thực hiện dân chủ không chỉ là nhu cầu phát triển của đời sống

chính trị, xã hội của đất nước mà còn là đòi hỏi cấp bách của việc thực hiện công

bằng xã hội. Triển vọng của việc thực hiện công bằng xã hội trong từng bước

tăng trưởng, phát triển kinh tế, phụ thuộc nhiều vào quá trình dân chủ hoá trên

mọi mặt của đời sống xã hội.

3.2. Một số giải pháp cơ bản

3.2.1. Thực hiện công bằng trong phân phối

Trong nền kinh tế thị trường, quá trình phân phối diễn ra khá phức tạp. Thị

trường có chức năng phân phối, thu thập thông qua quan hệ sở hữu và quan hệ

cung - cầu. Theo nguyên tắc của thị trường thì các yếu tố của sản xuất như vốn,

tài sản, sức lao động phải được trả giá đầy đủ, phải công bằng theo thoả thuận

nhưng cũng vì nguyên tắc đó nảy sinh sự bất bình đẳng về thu nhập và hưởng

thụ, gây mâu thuẫn, thậm chí xung đột giữa các tầng lớp, các giai cấp khác nhau

trong xã hội.



77



Nguyên nhân của sự bất bình đẳng trong thu nhập có nguồn gốc sâu xa từ

sự chênh lệch về sở hữu tài sản, vốn và sức lao động, sự chênh lệch nhau về điều

kiện sống giữa các vùng, về cơ hội tham gia vào thị trường của các tầng lớp, các

cá nhân, các vùng khác nhau do lịch sử từ lâu đời để lại hoặc do sự phân phối

nguồn lực chưa hợp lý từ phía Nhà nước v.v…

Thực tế trong nền kinh tế thị trường không bao giờ có sự phân phối công

bằng, hợp lý hoàn toàn. Muốn đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối cần

một Nhà nước trong sạch, đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động. Đối với

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của Nhà nước

trong điều tiết phân phối thu nhập lại càng quan trọng, bởi vì với tư cách của

dân, do dân và vì dân, Nhà nước phải giữ vai trò điều chỉnh mọi hoạt động nhằm

đảm bảo mục tiêu và lợi ích của toàn xã hội theo định hướng đã lựa chọn.

Nhà nước điều tiết phân phối thu nhập xã hội trong nền kinh tế thị trường,

không phải là bình quân, cào bằng làm thui chột động lực phát triển kinh tế, mà

ngược lại, chức năng điều tiết của Nhà nước phải đạt được mục tiêu thúc đẩy

kinh tế, nâng cao đời sống các thành viên trong xã hội để mọi người đều được

hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế nhưng không làm mất động lực của thị

trường trong phân phối lợi nhuận.

Nhà nước điều tiết phân phối thu nhập bằng những công cụ chính sách

như: chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tiền lương, chính sách bảo

hiểm xã hội… Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong

điều tiết phân phối thu nhập, từng bước thực hiện công bằng xã hội, nhưng vẫn

còn nhiều thiếu xót nên mức độ bất công xã hội vẫn còn cao và trong chừng mực

nào đó đã kìm hãm sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, để đảm bảo cho nền kinh tế thị

trường hoạt động có hiệu quả, vừa kích thích tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn giữ

được sự ổn định, hài hoà về mặt xã hội, thì vai trò điều tiết thu nhập của Nhà



78



nước để thực hiện công bằng trong phân phối cần thực hiện một số chính sách

chủ yếu sau đây:

Một là: Chính sách phân phối lợi nhuận.

Chính sách phân phối lợi nhuận cần đảm bảo nguyên tắc kết hợp hài hoà

giữa lợi ích xã hội với lợi ích tập thể và cá nhân người lao động. Cần phân biệt

các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường với những doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích xã hội để có mức thuế ưu đãi hoặc

miễn thuế cho các hoạt động công ích.

Hai là: Phân biệt các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong điều kiện

môi trường thuận lợi có lợi nhận siêu ngạch với những doanh nghiệp hoạt động

trong điều kiện kém lợi nhuận hơn để tăng mức thuế doanh thu đánh vào lợi

nhuận siêu ngạch và đồng thời giảm thuế cho những doanh nghiệp không có

những cơ hội thuận lợi trong sản xuất - kinh doanh.

Ba là: Có chính sách miễn giảm thuế hợp lý để khuyến khích đầu tư trong

nước và nước ngoài vào những vùng có khó khăn như nông thôn, miền núi, vùng

sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, Nhà nước cần điều tiết đúng mức thu nhập cá nhân

kể cả thu nhập cho thuê nhà, thuê đất mang lại thông qua thuế thu nhập để

khuyến khích mọi tầng lớp dân cư làm giàu chính đáng, vừa khuyến khích họ

góp phần vào việc giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.

3.2.2. Đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể kinh tế trong hoạt động

sản xuất - kinh doanh

Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta, các chủ thể trong nền kinh tế rất đa dạng, bao gồm các tổ chức,

cá nhân hoạt động trong các thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế Nhà nước,

hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác...



79



Để đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có

sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Về

vấn đề này, Văn kiện Đại hội X của Đảng ta khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ

sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều

thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu

chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan

trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước

pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế Nhà

nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định

hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành

phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có

vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.

Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức

kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất - kinh doanh và sở hữu. Xoá bỏ

mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu: Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi

hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục tiêu

như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục rủi ro” [15, tr.8384].

Vậy, để có sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất - kinh

doanh trong nền kinh tế thị trường, thời gian tới, Nhà nước cần tập trung hướng

tới những giải pháp sau:

Một là: Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của

các chủ kinh tế trong doanh nghiệp Nhà nước.



80



Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp Nhà nước thực sự hoạt

động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch. Xoá bỏ độc quyền và

đặc quyền sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà

nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và

trước pháp luật. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh

nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản lý

giỏi đáp ứng tốt yêu cầu.

Hai là: Đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể.

Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát

triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình

thức tổ chức sản xuất - kinh doanh,bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới.

Chú trọng phát triển và nâng cao hoạt động của các hợp tác xã,liên hiệp hợp tác

xã cổ phần.

Khuyến khích việc tăng vốn và các nguồn vốn huy động từ thành viên để

tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản

à quỹ không chia trong hợp tác xã.

Ba là: Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh

nghiệp của tư nhân.

Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với

quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền

bình đẳng trong đầu tư, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và

nhận thông tin.

Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi

cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô

trong mọi ngành nghề lĩnh vực sản xuất - kinh doanh quan trọng của nền kinh tế

mà pháp luật kông cấm.



81



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×