1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA HÀN QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.4 KB, 118 trang )


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT VỐN

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA HÀN QUỐC



1.1. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào

Việt Nam

1.1.1. Khái niệm chung về FDI và đặc điểm của FDI của Hàn Quốc

1.1.1.1. Khái niệm FDI

Ngày nay, trong phạm trù đầu tư kinh tế thì đầu tư nước ngoài là một

mảng lớn và rất quan trọng do dòng luân chuyển các nguồn lực sản xuất vật

chất vượt ra khỏi biên giới các nước trở nên tất yếu.

Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ thuật,

khả năng quản lý…từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục

đích thu lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu.

Vốn đầu tư nước ngoài có thể phân chia thành nhiều hình thức khác

nhau : Viện trợ phát triển chính thức (official Developmen assistance –

ODA); Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Govenment Oganization

– NGO); Vốn đầu tư nước ngoài vào chứng khoán (Postolio Foreign

Investment – PFI); Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment –

FDI . Luân văn này chỉ đề cập hình thức FDI.

FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà người bỏ vốn đầu tư và người sử

dụng vốn là một chủ thể, theo đó nhà đầu tư nước ngoài góp đủ một số vốn

vào lĩnh vực kinh doanh được phép và trực tiếp tham gia điều hành đối tượng

mà họ bỏ vốn đầu tư.

Theo cách tiếp cận nhấn mạnh vào động cơ và phân biệt giữa đầu tư

trực tiếp với đầu tư gián tiếp, Siderten và Geofrey R. (1994) và Salvatore D.

(1995) cho rằng, FDI thực chất là đầu tư vào các nhà máy, hàng hóa, đất đai ở



7



nước ngoài. Khi đó nhà đầu tư có quyền quản lý quá trình sử dụng nguồn vốn

đầu tư đó.

Cũng theo cách tiếp cận này, trong “Báo cáo cán cân thanh toán hàng

năm” của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI được hiểu là khoản đầu tư có lợi ích lâu

dài của một doanh nghiệp tại một nước khác, không phải tại nước mà doanh

nghiệp đang hoạt động với mục đích quản lý một cách có hiệu quả tại doanh

nghiệp đó.

Theo cách tiếp cận nhấn mạnh về chế độ sở hữu, Wallace S.D cho rằng

FDI được hiểu theo nghĩa rộng, đó là việc thiết lập hay giành được quyền sở

hữu đáng kể trong một loạt công ty ở nước ngoài hay sự gia tăng khối lượng

của một khoản đầu tư nước ngoài nhằm có được quyền sở hữu đáng kể

Trong Báo cáo đầu tư thế giới năm 1996, Ủy ban Thương mại và Phát

triển của Liên Hợp quốc xác định rằng, FDI là khoản đầu tư có mối liên hệ,

lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân đối với

một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác.

Theo cách tiếp cận về quản lý vốn đầu tư, Tổ chức Thương mại Thế

giới (WTO) chỉ ra thực tế rằng FDI chỉ xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước

(gọi là nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước nhận đầu

tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Như vậy, quyền quản lý tài sản là căn

cứ cơ bản để phân biệt FDI với các công cụ tài chính. Trong nhiều trường

hợp, nhà đầu tư có thể coi là công ty mẹ và các tài sản đầu tư vào các nước

khác được coi là các công ty con hay chi nhánh của công ty mẹ.

Theo cách hiểu của Mỹ, một trong các quốc gia đầu tư ra nước ngoài và

tiếp nhận đầu tư lớn nhất trên thế giới và Trung Quốc, quốc gia thu hút FDI

lớn thì cho rằng FDI là việc người sở hữu tư bản tại nước này mua hoặc kiểm

soát một thực thể kinh tế của nước khác. Thực chất, đó là khoản tiền mà nhà

đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết

định đối với thực thể kinh tế đó hoặc có thêm quyền kiểm soát trong thực thể



8



kinh tế đó. Các nhà kinh tế Nhật Bản thì cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài

là việc đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài nhằm tìm

kiếm lợi nhuận ở nước nhận đầu tư.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế và các nhà lập pháp của Việt Nam,

FDI được tiếp cận theo nguồn vốn đầu tư và coi FDI là một trong các nguồn

vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ quan trọng bên cạnh các nguồn vốn hỗ trợ chính

thức (ODA), nguồn vốn tín dụng từ các Ngân hàng … Theo Luật đầu tư năm

2005 xác định rằng FDI là việc các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam

vốn bằng tiền (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng …) hoặc bất kỳ tài sản nào khác để

tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư. Các nhà đầu tư nước

ngoài có thể là các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt

Nam thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đạt được lợi nhuận.

Với các cách tiếp cận khác nhau, để xác định khái niệm đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI), tựu chung FDI có thể hiểu như sau :

FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư (tổ chức hoặc cá nhân)

đưa vào nước tiếp nhận đầu tư một số vốn đủ lớn để thực hiện hoạt động sản

xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận và đạt được hiệu

quả kinh tế xã hội nhất định. Trong đó, chủ sở hữu đồng thời là người trực

tiếp quản lý và điều hành sử dụng vốn đầu tư.

Bản chất của FDI là nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích đầu tư, tìm kiếm

lợi nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư thông qua việc di chuyển vốn giữa nước

đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.

FDI là một trong những hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế quốc

tế. Nó hình thành và phát triển bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí địa lý, điều

kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các nước, xu hướng tự

do hóa nền kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của các công ty đa quốc

gia, nhu cầu thu hút vốn ngày càng tăng của các nước đang phát triển …



9



1.1.1.2. Đặc điểm của FDI của Hàn Quốc

FDI của Hàn Quốc là một dạng quan hệ kinh tế có đặc điểm chủ yếu sau:

- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc tập trung chủ yếu

trong công nghiệp chế tạo, sử dụng nhiều lao động, sản phẩm được xuất khẩu

là chính.Việc tận dụng nguồn lao động rẻ vẫn là mục đích của nhiều nhà đầu

tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. FDI của Hàn Quốc vào các ngành sản

xuất ô tô, xe máy, thiết bị điện tử, đồ dân dụng và các sản phẩm xuất khẩu.

- Các nhà đầu tư Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam chủ yếu dưới hình

thức 100% vốn đầu tư nước ngoài, chiếm khoảng 80%, tiếp đến là hình thức

liên doanh,chiếm khoảng 15% và còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh...Có

thể là nhà đầu tư Hàn Quốc rất cẩn thận khi đầu tư vào đối tác và họ luôn cẩn

trọng trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh, lĩnh vực đầu tư và địa điểm.

- Các dự án đầu tư của Hàn Quốc nhìn chung hoạt động tốt, quy mô

bình quân vốn lớn, cao hơn mức bình quân chung của cả nước ( trên 40 triệu

USD) và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất.

-Dự án đầu tư của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào 3 tỉnh, thành phố lớn

là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đồng Nai, có thể nói, cho đến nay, hầu hết

các tập đoàn hàng đầu của Hàn Quốc (Chaebol) đều đã có mặt ở Việt Nam.

- Các dự án Hàn Quốc tập trung vào những địa bàn có cơ sở hạ tầng

tương đối tốt. Tỷ lệ các dự án bị giải thể của Hàn Quốc thấp , nguyên nhân là

các nhà đầu tư Hàn Quốc rất thận trọng trong việc khảo sát, nghiên cứu trước

khi quyết định nên đã giảm thiểu được rủi ro khi đi vào hoạt động.

- Hạn chế của đầu tư của Hàn Quốc là khả năng chuyển giao công

nghệ còn thấp

* Đặc điểm ngành, lĩnh vực đầu tư

Xét về cơ cấu khu vực đầu tư, Hàn Quốc đầu tư vào Mĩ nhiều nhất, sau

đó đến Nhật bản, EU, Trung Quốc và ASEAN. Còn về cơ cấu ngành và lĩnh

vực đầu tư thì Hàn Quốc đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất, sau đó đến



10



bán buôn bán lẻ và dịch vụ. Giai đoạn 1976-1979 là thời kỳ xuất phát về vốn

đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc, đầu tư vào thương mại, xây dựng phát

triển nhanh do quy mô buôn bán được mở rộng ra toàn cầu.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc tập trung chủ yếu trong

công nghiệp chế tạo, sử dụng nhiều lao động, sản phẩm được xuất khẩu là

chính.Việc tận dụng nguồn lao động rẻ vẫn là mục đích của nhiều nhà đầu tư

nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. FDI của Hàn Quốc vào các ngành sản

xuất ô tô, xe máy, thiết bị điện tử, đồ dân dụng và các sản phẩm xuất khẩu.

Các nhà đầu tư Hàn Quốc vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức 100%

vốn đầu tư nước ngoài, chiếm khoảng 80%, tiếp đến là hình thức liên doanh,

chiếm khoảng 15% và còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh...Có thể là nhà

đầu tư Hàn Quốc rất cẩn thận khi đầu tư vào đối tác và họ luôn cẩn trọng

trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh, lĩnh vực đầu tư và địa điểm.

Các dự án đầu tư của Hàn Quốc nhìn chung hoạt động tốt, quy mô bình

quân vốn lớn, cao hơn mức bình quân chung của cả nước ( trên 40 triệu USD)

và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất.

Dự án đầu tư của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào 3 tỉnh, thành phố

lớn là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đồng Nai, có thể nói, cho đến

nay, hầu hết các tập đoàn hàng đầu của Hàn Quốc (Chaebol) đều đã có mặt ở

Việt Nam.

Các dự án Hàn Quốc tập trung vào những địa bàn có cơ sở hạ tầng

tương đối tốt. Tỷ lệ các dự án bị giải thể của Hàn Quốc thấp (9%), nguyên

nhân là các nhà đầu tư Hàn Quốc rất thận trọng trong việc khảo sát, nghiên

cứu trước khi quyết định nên đã giảm thiểu được rủi ro khi đi vào hoạt động

Do khủng hoảng kinh tế của Hàn Quốc, nên trong giai đoạn 19962000, nhiều dự án triển khai chậm hoặc xin tạm dừng triển khai. Các dự án

trong giai đoạn 1996-2000 gặp khó khăn chủ yếu trong lĩnh vực khách sạn,

văn phòng, căn hộ cho thuê, không loại trừ cả một số dự án công nghiệp.



11



* Công nghệ của các dự án đầu tư

Khả năng chuyển giao công nghệ còn thấp và quy mô đầu tư vào Việt

Nam thấp hơn nhiều so với đầu tư vào các nước khác trong khu vực như

Singapore, Malaixia, Thái Lan, đây là hạn chế của đầu tư của Hàn Quốc

* Một số vấn đề trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư trực

tiếp của Hàn Quốc

Thứ nhất : Do hiện tượng chuyển giá từ công ty mẹ ở nước ngoài gây

ra hiện tượng “ lỗ giả, lãi thật “ hay “ lãi công ty mẹ, lỗ công ty con “

Lợi dụng Việt Nam chưa có cơ quan thẩm định kỹ thuật, giá cả thiết bị

mà các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào liên doanh với hình thức vốn góp, các

nhà đầu tư nước ngoài đã khai vống giá trị của các máy móc thiết bị này để

nâng giá trị góp vốn của mình, tăng mức trích khấu hao hàng năm. Không

những thế họ còn đưa các thiết bị cũ, lạc hậu để thu lợi nhuận ngay từ vòng

ngoài khi liên doanh còn chưa hoạt động .

Thứ hai : ý đồ gạt bỏ đối tác Việt Nam của bên nước ngoài

Các nhà đầu tư của Hàn Quốc chấp nhận thua lỗ, thậm chí còn lỗ nặng

nề để được lọt vào một lĩnh vực nhất định mà luật đầu tư nước ngoài ở Việt

Nam chưa cho phép thực hiện mô hình công ty 100% vốn nước ngoài. Sau đó

lợi dụng chiêu bài lỗ do các chính sách tiếp thị, quảng cáo, chi tiền lương cho

người nước ngoài với chi phí rất lớn họ sẽ gạt bỏ dần sự có mặt của các đối

tác Việt Nam.

1.1.2. Mục tiêu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc.

 Mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm, nguồn nguyên liệu,

công nghệ trong khu vực và trên thế giới.

 Đạt được tỷ suất lợi nhuận cao

 Nâng cao cạnh tranh sản phẩm trên thị trường

 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn



12



1.1.3. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc

1.1.3.1. Các chính sách thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc

Trước 1975 vốn đầu tư ra nước ngoài của Hàn quốc chưa có tầm quan

trọng, chỉ khoảng 6 triệu USD trong khi điều luật về đầu tư ra nước ngoài đã

được ban hành từ tháng 12 năm 1968. Tuy tiên đầu tư ra nước ngoài của Hàn

quốc bước sang một giai đoạn mới từ 1975 khi phần lớn các cơ chế liên quan

đến đầu tư ra nước ngoài do Thống đốc Ngân hàng Hàn quốc đảm nhận thay

vì phải xin phê duyệt của chính phủ như trước. Từ 1980, chính phủ nới lỏng,

bãi bỏ các đạo luật, điều lệ gây hạn chế đầu tư ra nước ngoài trước đây khiến

đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc tăng nhanh.

Từ 1991 đến nay, chính phủ đã mở rộng vai trò hoạt động của các tổ chức

xúc tiến thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ tích cực hơn cho các công ty Hàn

quốc đầu tư ra nước ngoài thông qua việc cung cấp thông tin về thị trường đầu

tư, đặc biệt với những nước mà Hàn quốc chưa có quan hệ ngoại giao. Trong

việc cải cách hành chính, để tạo sự thuận lợi, nhanh chóng, tránh làm lỡ mất các

cơ hội đầu tư của các công ty, chính phủ đã uỷ quyền phê chuẩn cấp giấy phép

đầu tư cho ngân hàng Hàn quốc đối với những dự án có quy mô vốn từ 100.000

USD trở xuống, còn những dự án trên mức đó thì vẫn do chính phủ xem xét và

phê duyệt. Để đưa ra được những chính sách thích hợp với nhu cầu thực tế của

các công ty, chính phủ Hàn quốc đã thành lập các uỷ ban hợp tác đầu tư song

phương và hiệp hội các nhà đầu tư Hàn Quốc nhằm hỗ trợ tích cực hơn cho các

công ty Hàn quốc đầu tư ra nước ngoài bằng cách hàng năm tổ chức các diễn

đàn gặp mặt giữa uỷ ban, hiệp hội, các nhà đầu tư, nhằm đánh giá và nắm bắt

những vướng mắc, khó khăn của các nhà đầu tư ở thị trường nước ngoài để có

các biện pháp khắc phục, giải quyết kịp thời.

Từ năm 2005, để giảm bớt áp lực lên hoạt động xuất khẩu do sự tăng giá

của đồng won, Hàn Quốc đã có nhiều động thái để khuyến khích các doanh



13



nghiệp nước này tăng cường đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể là chính phủ miễn

thuế 3 năm cho các nhà đầu tư địa phương khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài;

cho phép gia tăng mức đầu tư vào bất động sản; đồng thời nới lỏng mức hạn

chế trong việc thành lập các chi nhánh nước ngoài của các doanh nghiệp tài

chính trong nước.

1.1.3.2.Tổng quan về tình hình trực tiếp đầu tư ra nước ngoài của Hàn

Quốc.

*FDI của Hàn Quốc phân theo vốn và dự án

Bảng 1.2 cho thấy đầu tư của Hàn Quốc ra nước ngoài từ năm 1980 đến

năn 2009 tăng không ngừng cả về số lượng vốn và số dự án

- Về số lượng dự án năm 1981 chỉ có gần 50 dự án nhưng tới nay đă có

hơn 6700 dự án với mức vốn đăng ký của một dự án ngày càng tăng lên. Số

lượng dự án tăng cao từ năm 1994 và tiếp tục tăng đều đặn qua các năm . Các

dự án này phần lớn ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp như: điện, điện

tử, sản xuất ô tô, linh kiện điện tử.

- Về số lượng vốn, từ năm 1990 qui mô vốn đầu tư tăng vọt càng lớn và

tiếp tục tăng đều đặn qua các năm 1991 – 1998 sau đó giảm xuống vào năm

1999. Towia nam 200 thì trở lại tốc độ tăng trưởng cao đến năm 2007 (ngoại

trừ năm 2002, 2003) tốc độ tăng trưởng trở lại. Nguyên nhân ḍòng vốn này

tăng mạnh vì các doanh nghiệp Hàn Quốc tìm kiếm những khoản lợi nhuận

cao hơn đầu tư trong nước nên đã đẩy mạnh khai thác thị trường mới, mặt

khác chính phủ Hàn Quốc cũng khuyến khích mạnh các công ty trong nước

đầu tư ra nước ngoài trong năm 2005 và năm 2006.. Tuy nhiên, năm 2008,

đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc lại suy giảm xuống c ̣òn 23.9 tỷ USD do

khủng hoảng kinh tế thế giới và các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng gặp không

ít khó khăn trong giai đoạn này. Năm 2009, tình hình có sự khởi sắc hơn và số

lượng vốn đạt 26.4 tỷ USD đă tăng lên so với năm 2008 do các doanh nghiệp

này bước đầu vượt qua cuộc khủng hoảng và có xu hướng đầu tư trở lại.



14



Bảng 1.1. Đầu tư của Hàn Quốc ra nước ngoài theo vốn và dự án

Đơn vị: Ngh́ ìn USD

Năm



Số vốn đầu tư



Số dự án



1980



145201



352



1981



28211



49



1982



100841



49



1983



108910



56



1984



50188



46



1985



112775



38



1986



182651



49



1987



409710



91



1988



215834



171



1989



570975



269



1990



963117



341



1991



1109702



444



1992



1216651



497



1993



1264179



689



1994



2303822



1487



1995



3101518



1332



1996



4458348



1472



1997



3709912



1330



1998



4812422



617



1999



5329344



1095



2000



15256667



2082



2001



11287450



2153



2002



9095450



2490



2003



6471238



2809



2004



12796558



3764



2005



15872840



4389



2006



18529274



5185



2007



27623587



6520



2008



23970284



5340



2009



26480753



6732



Tổng số



197578412



51938



Nguồn: Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc

*.FDI của Hàn Quốc vào Châu Á

15



FDI của Hàn Quốc đầu tư vào Châu Á bắt đầu từ những năm 90, sau đó

tăng khá nhanh và giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền

tệ Châu Á năm 1997. Đến đầu năm 2002, FDI Hàn Quốc vào Châu Á lại tăng

mạnh trở lại. Tổng vốn đầu tư đều tăng hơn 50%. Thị trường Châu Á là thị

trường đầy tiềm năng của Hàn Quốc vì có chi phí lao động và chi phí vận

chuyển thấp , nguồn nhân công lớn, ngoài ra c ̣òn sức mua của khu vực này

lớn và về văn hóa có nhiều điểm tương đồng.

Bảng 1.2 : Đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc tại Châu Á

Số vốn đầu tư



Năm



(Nghìn USD)



Số dự án



2000



1,575,643



1,186



2001



1,386,229



1,435



2002



1,748,096



1,828



2003



2,422,726



2,088



2004



3,390,899



2,698



2005



3,931,859



2,990



2006



6,059,314



3,472



Tổng



20,514,763



15,697



Nguồn: Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc

* Cơ cấu FDI của Hàn Quốc

Xét về cơ cấu khu vực đầu tư, Hàn Quốc đầu tư vào Mĩ nhiều nhất, sau

đó đến Nhật bản, EU, Trung Quốc và ASEAN. Còn về cơ cấu ngành và lĩnh

vực đầu tư thì Hàn Quốc đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất, sau đó đến bán

buôn bán lẻ và dịch vụ.

Các doanh nghiệp Hàn Quốc tập trung đàu tư chủ yếu trong công

nghiệp chế tạo, sử dụng nhiều lao động, sản phẩm được xuất khẩu là chính

các ngành sản xuất ô tô, xe máy, thiết bị điện tử, đồ dân dụng và các sản



16



phẩm xuất khẩu, ngoài ra còn đàu tư vào lĩnh vực khách sạn văn phòng, căn

hộ cho thuê.

Các nhà đầu tư Hàn Quốc chủ yếu đầu tư dưới hình thức 100% vốn đầu

tư nước ngoài...Có thể nói các nhà đầu tư Hàn Quốc rất cẩn thận khi đầu tư

ra nước ngoài và họ luôn cẩn trọng trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh,

lĩnh vực đầu tư và địa điểm đầu tư.

Các dự án đầu tư của Hàn Quốc nhìn chung hoạt động tốt, quy mô bình

quân vốn lớn, cao hơn mức bình quân chung của cả nước ( trên 40 triệu USD)

và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất.

Các dự án của Hàn Quốc thường tập trung vào những địa bàn có cơ sở

hạ tầng tương đối tốt.

Tỷ lệ các dự án bị giải thể của Hàn Quốc thấp, nguyên nhân là các nhà

đầu tư Hàn Quốc rất thận trọng trong việc khảo sát, nghiên cứu trước khi

quyết định đầu tư nên đã giảm thiểu được rủi ro khi đi các dự án đầu tư vào

hoạt động..

1.2. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á về thu hút vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài và bài học cho Việt Nam

1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á về thu hút vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài

1.2.1.1.Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút

FDI cho quá trình CNH-HĐH. Từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã

xuất hiện trong danh sách 10 nước đang phát triển đứng đầu thế giới về thu

hút FDI. Đặc biệt, trong những năm gần đây với lượng FDI tiếp nhận trung

bình khoảng gần 50 tỷ USD mỗi năm, Trung Quốc đã trở thành nước thu hút

FDI nhiều nhất Châu Á và là một trong 5 nước thu hút được nhiều FDI nhất

thế giới.



17



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

×