1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA HÀN QUỐC VÀO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.4 KB, 118 trang )


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

CỦA HÀN QUỐC VÀO VIỆT NAM



2.1. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thu hút FDI của Hàn Quốc

2.1.1. Chính sách thu hút FDI của Việt Nam

Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần

thứ VI, năm 1986. Đảng ta đề cao vai trò của kinh tế đối ngoại nói chung và

đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Tiếp theo các Đại hội Đảng lần thứ VII

(6/1991), Đại hội VIII (6/1996), Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006)

đều đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của Đại hội VI và tiếp tục khẳng

định vai trò rất quan trọng của FDI trong sự nghiệp phát triển kinh tế.

Đảng ta đã chỉ rõ: “Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ

kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng,

cùng có lợi, thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát huy mạnh mẽ các lợi thế

và nguồn lực bên trong. Cần thấy rằng quan hệ kinh tế với bên ngoài phải trên

nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, do đó, chỉ có thể mở rộng và đem lại

hiệu quả tốt khi dựa trên cơ sở và hướng vào khai thác tối đa mọi nguồn lực

và lợi thế bên trong. Ý chí tự lực tự cường không mâu thuẫn và ngược lại là

điều kiện cơ bản để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài” [12, tr.370].

Từ 01/7/2006, khi Luật Đầu tư chung có hiệu lực, hàng loạt chính sách

và biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư phù hợp với thông lệ quốc tế đã

được áp dụng, tiêu biểu là:

Thứ nhất, so với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây, theo quy định tại

Luật Đầu tư chung, quyền tự do đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư được

mở rộng, cụ thể là nhà đầu tư tự quyết định lĩnh vực đầu tư, hình thức và quy



34



mô đầu tư; trực tiếp xuất nhập khẩu hoặc ủy thác xuất nhập khẩu hàng hóa

liên quan đến hoạt động đầu tư; chủ động tiếp cận và sử dụng nguồn lực đầu

tư v.v.

Thứ hai, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) được

áp dụng; qua đó, xóa bỏ toàn bộ các rào cản đầu tư trước đây như các quy

định về ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước, về tỷ lệ nội địa

hóa, tỷ lệ xuất khẩu, nhập khẩu, tỷ lệ nghiên cứu và phát triển…

Thứ ba, Chính phủ đã ban hành Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày

22/9/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Đầu tư, trong đó có Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư, Danh

mục địa bàn ưu đãi đầu tư, Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng

cho nhà đầu tư nước ngoài và Danh mục lĩnh vực cấm đầu tư. Cụ thể:

* Lĩnh vực ưu đãi đầu tư, Chính phủ Việt Nam có chính sách ưu tiên

đối với các hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực như:

- Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ

cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo.

- Nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản; làm muối; sản xuất giống

nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới.

- Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái;

nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao. Sử dụng nhiều lao động.

- Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, các dự án quan trọng, có quy

mô lớn. Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục, thể thao và văn

hoá dân tộc. Phát triển ngành, nghề truyền thống.

- Những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích.

* Địa bàn ưu đãi đầu tư, Chính phủ Việt Nam có chính sách ưu tiên đối

với các hoạt động đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,

địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, chính sách



35



ưu đãi đầu tư cũng được áp dụng cho các doanh nghiệp đầu tư tại các KCN,

KCX, KCNC và KKT.

* Chính sách ưu đãi đầu tư bao gồm

Thứ nhất, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Tùy thuộc lĩnh vực và địa

bàn đầu tư, có 3 mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong 15

năm; 15% trong 12 năm và 20% trong 10 năm. Mức ưu đãi thuế thu nhập

doanh nghiệp tối đa dành cho các dự án đầu tư đặc biệt khuyến khích và các

dự án thuộc KCN, KCX, KCNC, KKT là miễn 4 năm và giảm 50% thuế phải

nộp trong 9 năm tiếp theo.

Thứ hai, miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, vật tư, phương tiện

vận tải chuyên dụng... nhập khẩu để tạo tài sản cố định; vật tư trong nước

chưa sản xuất được v.v.. Các ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng sẽ

được ghi rõ vào Giấy chứng nhận đầu tư. Cơ quan nhà nước thực hiện ưu đãi

đầu tư căn cứ vào thực tế đáp ứng điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư quy định

trong Giấy chứng nhận đầu tư để áp dụng ưu đãi đầu tư.

Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam áp dụng hỗ trợ đầu tư về chuyển giao

công nghệ, đào tạo, phát triển dịch vụ, thị thực nhập cảnh, xuất cảnh và phát

triển hệ thống kết cấu hạ tầng cho KCN, KCX, KCNC và KKT.

Về lĩnh vực hạn chế hoặc cấm đầu tư, Phụ lục III và IV của Nghị định

số 108/CP của Chính phủ chỉ rõ danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện (thí

dụ: phát thanh, truyền hình, sản xuất thuốc lá, kinh doanh bất động sản...) và

danh mục lĩnh vực cấm đầu tư (bao gồm các dự án gây phương hại đến quốc

phòng, an ninh quốc gia; tổn hại sức khỏe nhân dân, phá hủy môi trường...).

Điều kiện đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định

của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ ba, Luật Đầu tư chung là bước tiến mạnh mẽ trong việc cải cách

thủ tục hành chính theo hướng áp dụng phổ biến chế độ đăng ký đầu tư, đơn



36



giản hóa nội dung thẩm tra, rút ngắn thời gian cấp phép và mở rộng việc phân

cấp đầu tư cho các địa phương.

Bên cạnh lĩnh vực, địa bàn, chính sách ưu đãi đầu tư, Chính phủ còn rất

chú trọng đến các chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn

nhân lực, hoạt động xúc tiến đầu tư …

Với việc gia nhập WTO, Việt Nam cam kết thực hiện ngay các hiệp

định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), biện pháp đầu tư liên quan đến thương

mại (TRIMS)... Đồng thời, xóa bỏ các trợ cấp nhà nước không phù hợp thông

lệ WTO và có những cam kết quan trọng về mở cửa thị trường một số lĩnh

vực dịch vụ như viễn thông, phân phối, tài chính cũng như cắt giảm hàng rào

thuế quan, mở ra nhiều cơ hội mới cho các nhà đầu tư nước ngoài.

2.1.2. Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc

 Quan hệ hợp tác kinh tế

Hàn Quốc đã trở thành đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam trên

các lĩnh vực thương mại, đầu tư…Trong 20 năm qua ( 1992- 2007), Hàn

Quốc luôn đứng trong danh sách nhón 5 nước có quan hệ kinh tế quy mô lớn

nhất với Việt Nam .Hai nước đã thành lập Ủy ban liên chính phủ về Hợp tác

kinh tế và khoa học kỹ thuật Việt Nam- Hàn Quốc để thúc đẩy hợp tác kinh tế

song phương. Các doanh nghiệp Hàn Quốc có quan hệ hợp tác đầu tư ở Việt

Nam từ năm 1988. Đến năm 1992 khi mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước

được thiết lập thì vốn đầu tư của các doanh nghiệp đã tăng 2,66 lần so với 4

năm trước gộp lại ( 140.600.000USD). Năm 1993, Hàn Quốc đã đứng thứ 3

với 30 dự án và 508.500.000 USD tổng vốn đầu tư, tăng gấp 4 lần so với năm

1992, tính đến thang 5 năm 2007, Hàn Quốc là nước đứng thức 2 trong tổng

số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 1.365 dự án đầu tư

còn hiệu lực với tổng số vốn dăng ký trên 8,54 tỷ USD.



37



 Về lĩnh vực trao đổi thương mại

Trước khi quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước được thiết lập

vào năm 1992, quan hệ thương mại giữa hai nước còn ở mức rất thấp. Kim

ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc năm 1983 mới đạt 22,5

triệu USD, năm 1984 đạt 32,17 triệu USD và tăng dần đến năm 1990 đạt 149

triệu USD. Sau khi có quan hệ ngoại giao chính thức, quan hệ giữa hai nước

ngày càng được củng cố và hợp tác kinh tế ngày càng được mở rộng. Hai

nước đã ký nhiều hiệp định cấp chính phủ trong hầu hết các lĩnh vực quan

trọng (trong đó có lĩnh vực thương mại) như:

- Hiệp định hợp tác kinh tế và Khoa học kỹ thuật (2/1993).

- Hiệp định thương mại (5/1993).

- Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư (5/1993).

- Hiệp định hàng không (5/1993).

- Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (5/1994).

- Hiệp định hợp tác văn hóa (9/1994).

- Hiệp định hợp tác hải quan (3/1995).

- Hiệp định hợp tác vận tải biển (4/1995).

- Hiệp định hợp tác khoa học công nghệ (4/1995).

- Hiệp định Hợp tác giữa các cơ quan kiểm tra thủy sản (7/2000).

- Bản ghi nhớ về Hợp tác trong lĩnh vực xây dựng (7/2002).

- Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc (5/2006).

- Hiệp định Tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại (10/2009).

Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc tăng nhanh trong gần 20

năm qua. Thời kỳ tăng trưởng nhanh bắt đầu năm 1991, kim ngạch xuất nhập

khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc tăng mạnh, đạt 239 triệu USD, tăng 60,4%

so với mức 149 triệu USD năm 1990. Năm 1991, Hàn Quốc chiếm tỷ trọng



38



5,4% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong những năm

tiếp theo kim ngạch ngoại thương hai nước tiếp tục tăng với nhịp độ cao, và

đạt đến 1545 triệu USD vào năm 1995. So với năm 1991, kim ngạch thương

mại hai chiều năm 1995 tăng 5,5 lần. Hàn Quốc chiếm tỷ trọng 11,4% trong

tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam.

Năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực

tác động đến cả Việt Nam – Hàn Quốc, nên ngoại thương hai chiều sau khi

tăng mạnh nhất vào năm 1997 với 1843 triệu USD, đă giảm 10,4%, chỉ đạt

1652 triệu USD vào năm 1998, năm 1999 tăng được 6,5% và đạt 1759 triệu

USD, nhưng vẫn chưa bằng năm 1997.

Từ năm 2000 trở lại đây, ngoại thương hai chiều của Việt Nam và Hàn

Quốc tăng trở lại với tốc độ nhanh, vượt mốc 2 tỷ USD vào năm 2000, và đến

năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD.

Năm 2008, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 8,85 tỷ USD, tăng

34,4% so với năm 2007, gấp đôi năm 2006 và gấp 10 lần so với năm 1992.

Năm 2009, dù bị ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái

kinh tế toàn cầu, kim ngạch hai chiều vẫn xấp xỉ 10 tỷ USD, trong đó xuất

khẩu của Việt Nam vào Hàn Quốc đă tăng 16% so với năm 2008. Hàn Quốc

trở thành bạn hàng lớn thứ 4 của Việt Nam.

Tháng 10 – 2010, tại Hàn Quốc đă diễn ra Lễ ra mắt “Ủy ban hợp tác

thương mại Hỗn hợp Hàn Quốc – Việt Nam”, trên cơ sở Bản ghi nhớ kư

tháng 10 năm 2009. Hai bên sẽ trao đổi thông tin về cơ hội thương mại, hợp

tác công nghiệp, đầu tư, trao đổi về thông tin pháp luật, chính sách thương

mại, thuế quan, ngân hàng, hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực trao

đổi thương mại, công nghiệp và kỹ thuật.



39



Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Hàn Quốc vào

Việt Nam năm 2007

Mặt hàng xuất khẩu

Trị giá (USD)

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng

841.529.338

Vải các loại

812.692.608

Xăng dầu các loại

761.808.812

Nguyên phụ liệu dệt,may,da giày

389.118.262

Chất dẻo các loại

348.118.268

Kim loại

329.855.080

Sắt thép các loại

289.819.840

Linh kiện ô tô

143.639.155

Máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

135.869.959

Ô tô nguyên chiếc

115.089.790

Hóa chất

119.545.560

Nguồn: Tổng cục hải quan

Sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc c ̣òn hạn

chế ở một số mặt hàng như: thủy sản, bít tất, giày dép, gỗ, cao su, dầu thô, cà

phê, nguyên phụ liệu dệt may, thiết bị âm thanh, hàng thủ công mỹ nghệ…

Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hàn Quốc chủ yếu là:

máy móc, thiết bị và phụ tùng ô tô, nguyên phụ liệu dệt may, chất dẻo nguyên

liệu, sắt thép, xăng dầu , linh kiện điện tử và thuốc tân dược.

 Về hợp tác lao động

Hiện nay Việt Nam có gần 4 vạn lao động đang làm việc tại Hàn Quốc.

Người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc cơ bản được đánh giá cao về sự cần

cù và khéo léo. Bên cạnh tình trạng lao động bỏ trốn khỏi hợp đồng và cư trú

bất hợp pháp tại Hàn Quốc vẫn tiếp tục diễn ra nghiêm trọng

Ngày 25 tháng 5 năm 2004, Việt Nam và Hàn Quốc ký thỏa thuận mới

về đưa lao động Việt Nam sang Hàn Quốc theo Luật cấp phép lao động (EPS)



40



của Hàn Quốc. Thỏa thuận này đã năng cao địa vị pháp lý và quyền lợi cho

người lao động Việt Nam.

 Về hợp tác Du lịch

Trong vài năm gần đây, Hàn Quốc đã trở thành một thị trường cung cấp

khách du lịch trọng điểm của Việt Nam. Lượng khách khách Hàn Quốc vào

Việt Nam tăng trung bình 30%/ năm, với 13 lượt năm 2003, hơn 20 vạn năm

2004. Năm 2006, khoảng 3,62% tổng số người Hàn Quốc ra nước ngoài.

Từ ngày 01 tháng 7 năm 2004, Việt nam đã đơn phương miễn visa cho

công dân Hàn Quốc nhập cảnh Việt Nam trong vòng 15 ngày với mục đích

du lịch.

 Các quan hệ hợp tác khác

- Hợp tác văn hóa – giáo dục, hai nước ký Hiệp định Văn hóa tháng 8

năm 1994 cùng nhiều thỏa thuận hợp tác giao lưu thanh niên và giáo dục

khác, thường xuyên có các hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triển lãm,

điện ảnh và công diễn. Hiện nay đang có khoảng 1.000 sinh viên Việt nam

đang theo học các chương trình, cử nhân, cao học tại Hàn Quốc theo nhiều

con đường khác nhau như tự túc, học bổng..

- Hợp tác ngoại giao nhân dân: Tháng 9 năm 1994 Việt Nam thành lập

Hội hữu nghị Việt Nam- Hàn Quốc . Năm 2001 Hàn Quốc thành lập Hội giao

lưu Hữu nghị Hàn Quốc- Việt Nam ( Nguồn: VietnamEMbassy in the

Republic of Korea- Quan hệ song phương)

 Về viện trợ ODA

Năm 1994 Văn pḥòng đại diện Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc

(KOICA) đă được thành lập và đặt trong đại sứ quán Hàn Quốc ở Việt Nam.

KOICA là cơ quan đại diện của Hàn Quốc phụ trách các vấn đề về viện trợ

không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật cho các nước đang phát triển dưới dạng tài

trợ các dự án, nghiên cứu phát triển, cung cấp thiết bị, đào tạo, gửi chuyên gia

và tình nguyện viên đến các nước. Kể từ khi thiết lập KOICA ở Việt Nam,

ODA của Hàn Quốc cho Việt Nam đă tăng đáng kể từ 0,3 triệu USD năm



41



1992 lên 3,64 triệu USD năm 1997. Năm 1997 Việt Nam trở thành nước đứng

thứ hai trong số những nước nhận viện trợ không hoàn lại của Hàn Quốc.

Đã có hàng nghìn người Việt Nam tham gia các chương trình đào tạo

khác nhau ở Hàn Quốc. Phía Hàn Quốc đă cử các chuyên gia và tình nguyện

viên sang giúp Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Các hình thức viện trợ và hợp

tác giữa hai bên như:

- Viện trợ không hoàn lại: cung cấp trang thiết bị, dự án hợp tác…

- Hợp tác kỹ thuật:

- Mời tham gia các khóa đào tạo, nghiên cứu phát triển.

- Cử các chuyên gia, bác sĩ và hướng dẫn viên vơ thuật.

- Cử tình nguyện viên Hàn Quốc.

- Hỗ trợ các Tổ chức phi chính phủ và ủng hộ thiên tai.

Những lĩnh vực ưu tiên viện trợ chủ yếu cho Việt Nam:

- Phát triển nguồn nhân lực và những nhu cầu cơ bản của con người

như: Giáo dục, Đào tạo, Y tế…

- Hỗ trợ nhân đạo cho các vùng sâu vùng xa và người nghèo đói.

- Xây dựng thể chế cho các khu vực đang trong quá trình chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường.

- Phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Bảng 2.2: ODA của Hàn Quốc cho Việt Nam

Đơn vị: triệu USD



Năm



1991-



1995 -



2000 -



1994



1999



2003



3,613



19,046



17,899



Cam

2007



2008



2009



kết

2010



Cam kết

2008 -2011



Số

tiền



11,05 26,87 26,82 27,0



1000000



Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư



42



Những năm gần đây Việt Nam trở thành nước tiếp nhận Viện trợ phát

triển chính thức ODA lớn nhất của Hàn Quốc. Từ năm 1993 đến 2008, chính

phủ Hàn Quốc cung cấp viện trợ không hoàn lại trị giá 90 triệu USD và cam

kết cho vay ưu đăi 680 triệu USD. Năm 2008, viện trợ không hoàn lại của

Hàn Quốc cho Việt Nam đạt khoảng 26,87 triệu USD và hai nước đăng ký

cam kết 1 tỷ USD vay ưu đăi trong giai đoạn 2008 – 2011. Đây là một phần

trong chiến lược tăng cường hợp tác với Việt Nam của Hàn Quốc.

2.2. Tình hình thu hút FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam

2.2.1.Vốn và dự án đầu tư

2.2.1.1.Động thái vốn và dự án

Tính đến cuối tháng 9 năm 2012, cả nước có 3.111 dự án đầu tư nước

ngoài được cấp Giấy phép đầu tư hoạt động kinh doanh tại Việt Nam với tổng

số vốn đầu tư là hơn 24 tỷ USD.

So với năm đầu tiên mà các nhà đầu tư Hàn Quốc trực tiếp đầu tư vào

Việt Nam chỉ có 2 dự án đầu tư với 3,97 tỷ USD (bình quân 1,99 tỷ USD/1

dự án), cho đến năm 2008 đã có tới 294 dự án với số vốn đầu tư lên tới 2,01

tỷ USD. Như vậy, sau 20 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn

Quốc vào Việt Nam, xét cả về số dự án đầu tư và vốn đầu tư, đã có sự tăng

lên đáng kể.

* Giai đoạn 1988- 1990, giai đoạn khởi đầu

Trong 3 năm 1988-1990, do mới thực hiện Luật đầu tư trực tiếp nước

ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn đầu tư ở mức khiêm tốn. Cụ thể,

chỉ có 4 dự án đầu tư với vốn đầu tư là 4,87 ttriệu USD. Điểm đáng chú ý là

trong năm 1989, không có dự án đầu tư nào từ phía Hàn Quốc vào Việt Nam.

Trong giai đoạn này, đầu tư nước ngoài chưa tác động đến tình hình kinh tế xã hội của đất nước.

* Giai đoạn 1991- 1996, giai đoạn bùng nổ đầu tư nước ngoài



43



Trong giai đoạn từ 1991 đến 1996, FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam

đã tăng lên cả về số lượng dự án đầu tư và vốn đầu tư so với giai đoạn

trước. Cũng trong giai đoạn này, số lượng dự án đầu tư và vốn đầu tư có xu

hướng tăng lên theo chuỗi thời gian. Với 201 dự án đầu tư và số vốn là

2,45 tỷ USD. Giai đoạn 1991 – 1996 được xem là giai đoạn “bùng nổ” đầu

tư nước ngoài tại Việt Nam và được coi như làn sóng đầu tư nước ngoài

đầu tiên tại Việt Nam.

Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam đã bắt

đầu hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hàn Quốc nói

riêng. Như vậy là do chi phí đầu tư thấp hơn so với một số nước trong khu

vực, lực lượng lao động dồi dào với giá nhân công rẻ, thị trường hoàn toàn

mới và đầy tiềm năng. Chính vì thế, đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh

chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế và đóng góp tích cực

vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút

được 667,9 triệu USD vốn FDI từ Hàn Quốc, tăng gấp 13,3 lần so với năm

1991 (50,2 triệu USD). Năm 1996 thu hút được 940, 2 triệu USD vốn đầu tư,

tăng 40,8% so với năm trước.

* Giai đoạn 1997- 2000, giai đoạn giảm sút do ảnh hưởng cuộc khủng

hoảng tài chính Châu Á

Do cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, đầu tư nước ngoài

của Hàn Quốc vào Việt Nam có sự giảm sút rõ rệt cả về số dự án đầu tư và về

vốn đầu tư. Trong 4 năm 1997-2000 có 120 dự án được cấp phép với tổng vốn

đầu tư hơn 800 triệu USD theo xu hướng chung số vốn đầu tư năm sau thấp

hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 10,7% năm 1997, năm 2000 chỉ bằng 44%

năm 1999).

* Giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn phục hồi và tăng trưởng mạnh



44



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

×