Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.81 KB, 97 trang )
những sự phê phán của Arixtốt đối với những quan điểm này. Và ở khía cạnh
này, cũng có thể nói, Arixtốt đã thể hiện một tư duy biện chứng – đó chính là
sự kế thừa có phê phán đối với quan điểm triết học của thầy mình.
Học thuyết bản thể luận của Platôn dựa vào học thuyết của Xôcrát về vai
trò của khái niệm đối với việc nhận thức tồn tại. Theo ông, nhận thức luôn luôn
hướng tới bản chất bất biến của sự vật và những tính chất căn bản của sự vật
chính là những tính chất được bộc lộ ra trong khái niệm về sự vật. Do đó, trong
học thuyết ý niệm, Platôn đã khẳng định rằng: dường như các khái niệm không
chỉ là những tư tưởng của chúng ta về sự vật mà chúng chính là tồn tại, hơn
nữa là tồn tại có thực, chân chính. Khái niệm không chỉ là những hình ảnh nhận
thức luận hay logic mà trước hết nó có tính tồn tại và mang bản chất bản thể
luận, chúng không phụ thuộc vào sự tồn tại cảm tính luôn biến động của các sự
vật hiện tượng. Các khái niệm tồn tại tự nó, độc đáo và vô điều kiện.
Vấn đề ý nghĩa của khái niệm đối với tồn tại và tri thức cũng là vấn đề
trung tâm đối với triết học Arixtốt. Khi giải quyết vấn đề này, ông cố gắng
xác định một cách chính xác quan điểm của mình đối với học thuyết “ý niệm”
của Platôn. Arixtốt cũng giống như Platôn khi ông cho rằng chính nhờ các
khái niệm mà các tính chất bất biến căn bản của tồn tại được nhận thức, và
cũng như Platôn, Arixtốt cho rằng chính các khái niệm là phương tiện nhận
thức căn bản của các sự vật.
Mặc dù đồng ý với Platôn ở các điểm trên, nhưng Arixtốt kiên quyết
chống lại học thuyết của Platôn về sự tồn tại độc lập, vô điều kiện của các
khái niệm đối với các sự vật. Arixtốt phản đối quan niệm của Platôn khi
Platôn coi khái niệm như là bản chất thực duy nhất đối với tồn tại cảm tính.
Arixtốt chỉ ra nguồn gốc lịch sử của tư tưởng này của Platôn. Nguồn gốc đối
với việc xuất hiện học thuyết “ý niệm” của Platôn là học thuyết của Hêraclit
về tính biến đổi thường xuyên của các sự vật cảm tính. Platôn có nguyện vọng
45
tìm kiếm trong dòng chảy Hêraclit một cái gì đó trong sự vật, mà chỉ với tư
cách như vậy nó mới có thể trở thành khách thể của nhận thức. Về vấn đề này
Arixtốt viết: “Những người ủng hộ học thuyết êidos (ý niệm) là những người
tin vào tính chân lý của các quan điểm của Hêraclit cho rằng tất cả các sự vật
cảm tính đề biến đổi không ngừng, và nếu có tri thức và nhận thức lý tính một
cái gì đó thì ngoài các sự vật tri giác được bằng cảm tính, cần tồn tại một số
bản chất khác, thường xuyên hiện diện, bởi vì không thể có tri thức về cái
biến đổi” [55; 18].
Nhưng Arixtốt không dừng lại ở việc chỉ ra nguồn gốc lịch sử của học
thuyết Platôn về “ý niệm”. Trong chương 4 và 5 quyển XIII của “Siêu hình
học”, Arixtốt đã phát triển sự phê phán của mình đối với học thuyết “ý niệm”
của Platôn, ông xem ý niệm như là những bản chất độc lập, độc đáo, tách rời
khỏi thế giới của những sự vật cảm tính. Cũng xuất phát từ đó, trong hàng loạt
chỗ khác Arixtốt đã đưa ra học thuyết riêng của mình về mối quan hệ giữa các
sự vật cảm tính với các khái niệm trong sự đối lập với học thuyết của Platôn.
Sự phê phán đối với học thuyết ý niệm của Platôn có thể quy về bốn
điểm sau:
Thứ nhất, theo Arixtốt, giả định về các ý niệm là những cái tồn tại độc
lập, tách khỏi sự tồn tại của các sự vật cảm tính là vô tác dụng không những đối
với nhận thức các sự vật này mà cả đối với việc giải thích sự tồn tại của chúng.
Giả thuyết về sự tồn tại của các ý niệm không đem lại cho tri thức về các sự vật
một thông tin mới nào, bởi vì các ý niệm của Platôn về thực chất chỉ là những
bản sao đơn giản của các sự vật cảm tính, trong nội dung các ý niệm không có
cái gì có thể phân biệt được với những sự vật cảm tính tương ứng với chúng.
Theo Platôn thì cái chung có ở trong các ý niệm. Nhưng bởi vì nó có ở trong
các sự vật cảm tính riêng biệt và cả trong các ý niệm nên trong các ý niệm
không thể có một nội dung mới nào mà ở trong các sự vật riêng biệt không có.
46
Ví dụ, ý niệm con người (con người tự nó) không phân biệt được với những
dấu hiệu chung vốn có của mỗi con người cảm tính riêng biệt.
Thứ hai, theo Arixtốt thế giới “ý niệm” của Platôn là vô tác dụng không
chỉ đối với nhận thức mà đối với cả sự tồn tại của các sự vật cảm tính. Theo
ông, để có ý niệm đối với sự tồn tại đó thì vương quốc “các ý niệm” cần phải
thuộc về lĩnh vực các sự vật cảm tính. Nhưng điều này là không thể bởi vì
lĩnh vực ý niệm của Platôn tách biệt hoàn toàn đối với thế giới của các sự vật
cảm tính. Vì vậy, không thể có bất kì cơ sở nào đối với mối quan hệ giữa hai
thế giới trên. Theo Arixtốt thì Platôn hiểu rằng vấn đề về mối quan hệ giữa
hai thế giới cần phải được đặt ra. Nhưng ông đã né tránh những khó khăn khi
giải quyết những vấn đề này. Ông đã giải quyết những khó khăn đó bằng cách
lí giải rằng các sự vật cảm tính “can dự” vào “các ý niệm”. Sự giải thích này
theo Arixtốt thực chất là nhắc lại thủ pháp của trường phái Pitago khi họ giải
quyết mối quan hệ giữa các sự vật với những con số, họ cho rằng các sự vật
cảm tính tồn tại theo sự mô phỏng của các con số. Nhưng theo khẳng định của
Arixtốt thì cả thủ pháp của Platôn và của trường phái Pitago đều không phải
là giải thích mà chỉ là lối ẩn dụ. Cụ thể, ở Platôn thuật ngữ “can dự” hoàn toàn
không cho ta một sự định nghĩa nghiêm ngặt, rõ ràng về mối quan hệ giữa hai
thế giới. Theo Arixtốt thì định nghĩa như vậy không được vì “các ý niệm”
không phải là những bản chất trực tiếp của sự vật.
Thứ ba, sự bất đồng quan điểm của Arixtốt với học thuyết ý niệm của
Platôn còn được xây dựng trên sự xem xét học thuyết của Platôn về mối quan
hệ logic của các ý niệm. Điều đó được thể hiện ở cả hai khía cạnh: thứ nhất,
đó là mối quan hệ logic giữa các ý niệm với nhau; thứ hai là mối quan hệ giữa
các ý niệm với các sự vật cảm tính.
Mối quan hệ giữa các ý niệm với nhau trước hết là mối quan hệ của các
“ý niệm chung” với các “ý niệm riêng”. Ở đây, theo quan điểm của Platôn thì
47
cái chung là bản chất của cái riêng. Theo Arixtốt thì cách giải quyết như vậy
về mối quan hệ của những ý niệm chung với những ý niệm riêng và vấn đề về
tính bản thể của ý niệm là mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó là ở chỗ, theo
giả thiết của Platôn thì dường như cùng một ý niệm có thể vừa là bản chất vừa
không phải là bản chất: xét trong mối quan hệ với các khái niệm lệ thuộc, nó
được thể hiện như là bản chất của chúng nhưng lại không phải là bản chất nếu
xét trong mối quan hệ với các khái niệm chung hơn.
Theo Arixtốt thì Platôn đã sa vào mâu thuẫn trong học thuyết của mình
cả trong mối quan hệ giữa thế giới các sự vật cảm tính và thế giới các ý niệm.
Platôn thừa nhận rằng các sự vật của thế giới cảm tính chứa trong nó một cái
gì đó chung giữa chúng. Nhưng cái chung không thể là một bộ phận cấu thành
giản đơn của các sự vật riêng biệt. Từ đó Platôn đi đến kết luận: dường như là
cái chung cấu thành một thế giới hoàn toàn đặc biệt, tách biệt hẳn với thế giới
các sự vật cảm tính và hoàn toàn độc đáo. Như vậy là sự vật và các ý niệm về
nó tồn tại một cách độc lập. Nhưng thế giới các sự vật cảm tính là ánh xạ của
thế giới ý niệm vì vậy mỗi sự vật riêng biệt và ý niệm về nó cần phải có một
cái gì đó giống nhau và giữa chúng phải có cái gì đó chung. Và nếu như cần
thiết phải giả định giữa thế giới ý niệm độc đáo riêng biệt với thế giới những
sự vật cảm tính có một mối quan hệ nào đó giữa chúng thì giữa hai thế giới đó
phải có một thế giới ý niệm độc đáo nữa. Đó sẽ là một thế giới ý niệm thứ hai,
đứng trên thế giới các sự vật cảm tính và đứng ngoài thế giới ý niệm đầu tiên.
Nhưng giữa thế giới mới này – thế giới ý niệm thứ hai với thế giới ý
niệm thứ nhất và thế giới các sự vật cảm tính, đến lượt chúng lại lại phải tồn
tại cái gì đó chung. Và nếu giữa thế giới ý niệm thứ nhất và thế giới các sự vật
cảm tính đã phải tồn tại thế giới ý niệm thứ hai giữa chúng, thì trên cơ sở lập
luận đó ta cũng cần phải giả định có một cái gì chung giữa thế giới ý niệm thứ
nhất với thế giới ý niệm thứ hai và thế giới các sự vật cảm tính, cái chung đó
48
phải là thế giới ý niệm thứ ba. Nếu tiếp tục phát triển luận cứ như vậy thì tất
yếu phải đi đến kết luận rằng trên thế giới các sự vật cảm tính không chỉ tồn
tại một thế giới ý niệm mà tồn tại một tập hợp vô hạn những thế giới ý niệm.
Như vậy sự phê phán của Arixtốt đối với học thuyết ý niệm của Platôn là
ở chỗ, nếu nhìn nhận nó thì ngoài con người thể xác và con người linh hồn còn
cần phải tồn tại một “con người thứ ba”. Hơn nữa, Arixtốt viết: trên cơ sở của
những phép chứng minh tương đối chính xác thì một số người thừa nhận những
ý niệm mà người ta nói về chúng, rằng đối với chúng “không có giống tự nó”;
một số người khác thì đưa ra lí lẽ tương ứng với khái niệm “con người thứ ba”.
Luận cứ thứ tư của Arixtốt chống lại học thuyết “ý niệm” của Platôn là
việc chỉ ra rằng học thuyết này không cho và không thể cho ta sự giải thích
được một đặc điểm quan trọng nào về các sự vật của thế giới cảm tính đó là
sự vận động và hình thành, xuất hiện và mất đi của chúng. Theo Arixtốt, từ
quan niệm của Platôn cho rằng các ý niệm tạo nên một thế giới bản chất đóng
kín, độc đáo và hoàn toàn riêng biệt, chúng ta sẽ không thể dùng học thuyết ý
niệm để chỉ ra được nguyên nhân của mọi sự biến đổi và vận động diễn ra
trong thế giới những sự vật cảm tính.
Trong “Siêu hình học” (quyển XIII, chương 9) Arixtốt đã chỉ ra rằng
nguyên nhân cơ bản của những khó khăn mà Platôn đã gặp phải trong học
thuyết ý niệm của mình chính là ở chỗ ông đã tách biệt tuyệt đối cái chung và
cái riêng và đặt chúng đối lập nhau.
Theo Arixtốt, căn nguyên của những vấn đề đó chính là những định
nghĩa của Xôcrát. Mặc dù, Xôcrát trong mọi trường hợp đã không tách cái
chung khỏi cái riêng, cái đơn nhất. Arixtốt viết: “nguyên nhân tại sao có một
người coi ý niệm như là những bản chất chung và gắn cái nọ lẫn cái kia vào
làm một là họ không đồng nhất những bản chất này với những sự vật cảm
tính; theo ý kiến của họ thì tất cả những cái đơn nhất trong thế giới những sự
49
vật cảm tính đều thường xuyên biến đổi và không có cái gì bền vững, còn cái
chung thì tồn tại bên ngoài nó và là một cái gì đó khác hẳn….” [55; 26].
Đối với Arixtốt, ông đồng ý rằng một mặt không có cái chung thì
không có tri thức, nhưng mặt khác việc tách rời cái chung khỏi cái đơn nhất sẽ
dẫn đến khó khăn đối với các ý niệm. Ở đây, Arixtốt đã có quan niệm khá hợp
lý về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Trong giai sau của cuộc đời, Platôn đã tiến gần với những quan điểm
của trường phái Pitago. Sự gần gũi quan điểm của Platôn với trường phái
Pitago không chỉ trong vũ trụ học mà cả trong cách hiểu bản chất của “các ý
niệm” mà ở giai đoạn này nó được đồng nhất với những con số. Trong quyển
XIII của “Siêu hình học” Arixtốt đã phê phán khuynh hướng này của Platôn
trong học thuyết “ý niệm”. Cơ sở của sự phê phán này là quan điểm đối với
các số như là đối với sự trừu tượng một số mặt và tính chất của các sự vật nhờ
khái niệm. Những sự trừu tượng như vậy hiển nhiên là có thực nhưng việc
luận cứ chúng hoàn toàn không phải như Platôn và những người theo trường
phái ông khẳng định. Tất nhiên trong một ý nghĩa nhất định thì toán học là
khoa học không phải về các sự vật cảm tính, nhưng nó cũng không phải là
khoa học về cái tồn tại tách biệt khỏi những sự vật này, nghĩa là về những ý
niệm. Arixtốt hoàn toàn tán thành thủ pháp của các nhà nghiên cứu số học và
hình học khi trong những sự trừu tượng của mình, họ cố gắng “tách ra những
cái mà nó không tồn tại riêng biệt”, nhưng hơn thế “họ lập luận về cái trên
thực tế tồn tại và đối tượng của chúng là cái tồn tại”.
Sự phê phán của Arixtốt và sự tách mình ra khỏi quan điểm của Platôn
về đối tượng của toán học đã được V.I.Lênin đánh giá cao trong “Bút kí triết
học”. Khi nói về những khó khăn trong việc luận bàn về đối tượng của toán
học, Lênin đã khen ngợi Arixtốt giải quyết những khó khăn này một cách “rất
hay, rõ ràng, duy vật”.
50
Chính quan điểm của Arixtốt về bản chất của trừu tượng toán học đã
làm cho ông trở trở thành người đối địch không chỉ đối với học thuyết ý niệm
của Platôn ở giai đoạn đầu mà cả ở giai đoạn sau khi mà các ý niệm được hiểu
như là những con số của Pitago. Arixtốt đã chứng minh rằng những ý niệm
theo ý nghĩa của Platôn sẽ dẫn đến những câu hỏi như là: trên thực tế thì “con
người - tự nó”, “thực thể sống - tự nó” hay một ý niệm khác nào đó sẽ là
những số nào? Do đó, ông đi đến kết luận rằng ý niệm không thể là con số.
Từ việc phê phán học thuyết ý niệm của Platôn, Arixtốt đi đến xây
dựng hệ thống triết học riêng của mình trên cơ sở tiếp thu những điểm hợp lý
trong thế giới quan của Platôn, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó.
2.1.2. Tư tưởng về tính khách quan và sự vận động của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới
Trước hết là về tính khách quan, trong vấn đề này, Arixtốt đã khẳng
định một cách đúng đắn rằng, tự nhiên tồn tại khách quan, tồn tại tự nó. Tự
nhiên bao gồm vô số sự vật cụ thể, đơn nhất nhưng tồn tại không cô lập, tách
rời nhau mà liên hệ chặt chẽ với nhau. Chúng có tính thống nhất và tính tất
yếu. Vì thế, ông quan niệm rằng, nghiên cứu tồn tại không chỉ giới hạn ở sự
vật riêng lẻ hay chỉ ở những mặt, những thuộc tính của nó mà phải nghiên cứu
tồn tại trong sự thống nhất và tính tất yếu của nó.
Trong học thuyết về 4 nguyên nhân (học thuyết về thế giới), Arixtốt nói
“phàm những vật tồn tại, một số tự nhiên tồn tại, còn số khác thì bởi vì
nguyên nhân khác mà tồn tại”. Ý ông muốn nói đến “tự nhiên tồn tại” chỉ là
giới tự nhiên. Còn những tồn tại khác là chỉ những cái do con người làm ra”
[dẫn theo 37; 93].
Theo Arixtốt, giới tự nhiên có nghĩa là nó tồn tại một cách tự nhiên,
nghĩa là không cần có sự can thiệp từ bên ngoài. Và giới tự nhiên cũng phát
triển theo một thứ tự nhất định. Cái có tính chất quy định sự phát triển của
51
giới tự nhiên đó được ông gọi là “hình trạng” (hình dạng). Trồng một hột bưởi
thì phải mọc cây bưởi thì phải mọc cây bưởi, trồng hột mít thì phải mọc ra cây
mít… Cây bưởi, cây mít là hình trạng của tự nhiên.
Arixtốt viết “những vật đang sinh trưởng, nếu xét về sự sinh trưởng của
nó, tức là sinh trưởng từ cái gì và sinh trưởng ra cái gì… Tuyệt nhiên không phải
sinh trưởng ra giống như cái đã sinh trưởng ra chính nó mà chính là sinh trưởng
ra cái mà nó hướng tới. Cho nên hình trạng mới là tự nhiên” [dẫn theo 37; 93].
Từ quan niệm trên, Arixtốt đã trình bày học thuyết về 4 nguyên nhân. Và
chính ở đây ông đã bộc lộ sự giao động giữa duy vật và duy tâm. Arixtốt thừa
nhận chất liệu là nguyên nhân quan trọng của tồn tại. Chất liệu gồm 4 yếu tố:
Đất, nước, lửa, không khí. Chất liệu (vật chất) là vĩnh viễn tồn tại. Thần không
tạo ra nó được. Đến đây ông là nhà triết học duy vật. Thế nhưng Arixtốt lại cho
rằng quyết định của tồn tại không phải là chất liệu mà là chính là hình thức.
Chất liệu bao giờ cũng phải tồn tại trong một hình thức cụ thể nào đó. Thần
không sáng tạo ra chất liệu nhưng thần là động lực thúc đẩy chất liệu trở thành
hình thức. Trong thiên nhiên, động lực này nằm ngay trong bản thân nó. Ví như
người thầy thuốc tự chữa bệnh cho mình. Nhưng trong thiên nhiên cả động lực
và mục đích đều nằm trong tay thần. Như vậy, khi nói rằng chất liệu có trước,
vĩnh viễn ông đã đứng cùng những nhà duy vật truyền thống Milê nhưng khi
chuyển sang cho rằng hình thức và mục đích là quyết định, ông đã chuyển sang
đứng cùng chiến hào với Platôn. Ông cũng không thấy sự khác biệt gì giữa tồn
tại của thiên nhiên và tồn tại do con người làm ra.
Bên cạnh đó, tư tưởng biện chứng của Arixtốt còn thể hiện trong quan
niệm về vận động. Ở khía cạnh này, Arixtốt chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi
triết học của Hêraclit – người được coi là sáng lập ra phép biện chứng: “tư
tưởng biện chứng và quan niệm của Arixtốt về vận động chính là sự kế thừa
và phát triển phép biện chứng và học thuyết về dòng chảy của Hêraclit” [65;
52
46]. Khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Hêraclit về vận động, về
sự không ngừng “trôi đi, chảy đi” của vạn vật trong vũ trụ, Arixtốt cho rằng
vận động là thuộc tính vốn có của tự nhiên, của vật chất, rằng vận động trong
tự nhiên là đương nhiên. Ông khẳng định: “Tự nhiên đã được định nghĩa là
“căn nguyên của vận động và biến hóa” [dẫn theo 37; 96].
Arixtốt quan niệm đúng đắn rằng vận động gắn liền với tự nhiên và vật
chất; khi nghiên cứu vận động thì không thể hiểu được cuộc sống của nó cũng
như khuynh hướng vận động và phát triển của nó bởi vận động là phương thức
tất yếu biến những cái khả năng thành hiện thực. Arixtốt nhấn mạnh rằng: vận
động trong tự nhiên là đương nhiên, không cần phải tranh cãi; vận động không
tồn tại như một thực thể đặc biệt, nó không phải là một lực, một quy luật đứng
trên tự nhiên, mà là một trạng thái không tách rời kết cấu nội tại của các vật thể
tự nhiên. Ông tuyên bố dứt khoát rằng: “không có vận động ở bên ngoài sự
vật”; rằng “đã có vận động thì mãi mãi có vận động”. Về câu hỏi có thể tách rời
các vật thể ra khỏi vật chất vận động hay không? Arixtốt đã trả lời: Điều đó là
có thể, song nó chỉ có trong tư duy [dẫn theo 37; 97]. Theo ông vận động là
vĩnh viễn, cho nên chúng ta không cần đặt ra vấn đề tìm hiểu xem vận động bắt
đầu từ đâu và mất đi từ khi nào, mà chỉ nên tìm hiểu về sự chuyển hóa từ trạng
thái hỗn mang, hỗn độn của các vật thể tự nhiên thành vũ trụ như thế nào, tức là
chỉ cần nghiên cứu nguồn gốc vận động. Arixtốt cho rằng: “Lơxip và Platôn
nói rằng vận động là vĩnh viễn nhưng họ không nói tại sao” [33; 303].
Về nguồn gốc vận động, Arixtốt không tìm nguồn gốc đó ở bên ngoài
sự vật. Sự vật vận động, theo ông không phải chỉ do vật này tác động vào vật
khác. Với quan niệm này, Arixtốt đã gần đi tới chỗ thừa nhận rằng vận động
có nguồn gốc nội tại, tự thân. Nhưng ông đã không đứng vững trên quan điểm
duy vật mà lại sa vào chủ nghĩa duy tâm khi ông tìm đến động cơ đầu tiên, mà
thiếu nó, sẽ không có bất kỳ động cơ nào khác, vận động nào khác. Theo ông,
53
động cơ đầu tiên là tồn tại tối thượng, tự thân, phi vật chất, siêu tự nhiên, là trí
tuệ thuần túy, là hình thức thuần túy, “hình thức của những hình thức”, khởi
động và chi phối các quá trình vũ trụ.
Với cách hiểu này, động cơ đầu tiên đã được ông đồng nhất với thần,
nhưng không phải là thần sáng tạo mà là thần tự biết mình, nhận thức vũ trụ
và đem lại cho vũ trụ sức mạnh. Thần này cũng không phải là một “thực tại
nhân hình, hữu vị”, tình yêu như chúa trời trong đạo Do Thái và Thiên chúa
giáo, mà là một thực tại vật lý, vũ trụ, thậm chí là một lý tưởng cần thiết để
làm cho vũ trụ này vận động theo tính quy luật của nó. V.I.Lênin cho rằng:
“Arixtốt đã viện đến thần một cách thảm hại như thế đấy để chống lại nhà duy
vật Lơxip và nhà duy tâm Platôn” [33; 303].
Từ nhận xét này V.I.Lênin đã đánh giá chủ nghĩa duy tâm của Arixtốt
và sự khác biệt của nó với chủ nghĩa duy tâm của Platôn như sau: “Hêghen
thấy chủ nghĩa duy tâm của Arixtốt trong ý niệm về thần của ông ta. (Đương
nhiên, đó là chủ nghĩa duy tâm, nhưng một chủ nghĩa duy tâm khách quan
hơn, xa xôi hơn và chung hơn so với chủ nghĩa duy tâm của Platôn, và do đó
trong triết học tự nhiên, nó thông thường là = chủ nghĩa duy vật))” [33; 302].
Arixtốt còn phân loại các hình thức vận động theo nguyên tắc về mâu
thuẫn- sự xuất hiện và sự diệt vong và theo nguyên tắc về sự đối lập- sự biến
đổi về chất và sự biến đổi về lượng với tư cách là sự tăng lên và sự giảm đi
cũng như sự di chuyển vị trí trong không gian. Có thể nói, sự phân loại các
hình thức vận động của Arixtốt là thử nghiệm đầu tiên nhằm đưa ra quan
niệm coi sự vận động phổ biến dưới dạng có trật tự, là thử nghiệm cố gắng
nhận thức bản chất biện chứng, đa dạng và đa chất của vận động.
Trong các hình thức vận động nói trên, Arixtốt coi hình thức vận động
chung nhất là hình thức di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. Ông
cho rằng: “mọi vận động đều là sự di chuyển vị trí của cái vận động” và sự
54
thay đổi vị trí là khâu khởi đầu của vận động. Ông quy định mọi hình thức
vận động vào một hình thức vận động duy nhất là vận động di chuyển vị trí.
Hình thức vận động này, theo ông, là tiền đề của các hình thức vận động khác.
Arixtốt còn chia vận động trong không gian thành: 1) vận động vòng
tròn; 2) vận động đường thẳng; 3) kết hợp vận động đường tròn và vận động
đường thẳng. Trong các dạng vận động đó, vận động vòng tròn là vận động có
tính liên tục, là vận động hoàn hảo nhất vì: vận động ấy diễn ra liên tục, vĩnh
cửu và một khi cái toàn thể nào đó vận động theo vòng tròn thì trong khi vận
động, nó vẫn có thể ở trạng thái (dường như) đứng im, hay cân bằng tương
đối; vận tốc của vòng tròn là không đổi, cái mà vận động theo đường thẳng
không thể có được.
Công lao to lớn của Arixtốt khi xem xét phạm trù vận động còn là ở
chỗ, ông đã vạch được mối liên hệ giữa không gian và thời gian với vận động.
Ông cho rằng, vận động đã làm bộc lộ những đặc tính cơ bản của không gian.
Thông qua vận động đã xác định được các hướng của nó: phía trên và phái
dưới, phía trước và phía sau. Còn chúng ta “nhận thức thời gian khi chúng ta
nói thời gian đã trôi qua, chúng ta sẽ có được tri giác cảm tính về cái có trước
và cái có sau trong vận động” [70; 294]. Như vậy, thời gian tự nó là một tính
xác định được nhận thấy trong vận động.
Arixtốt còn chỉ ra rằng, vận động, không gian, thời gian đều là đại
lượng “liên tục” và gián đoạn đã cho thấy ông chính là người có quan niệm
biện chứng về phạm trù vận động cũng như không gian và thời gian được
Arixtốt xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề tính vô tận của chúng.
Vì theo Arixtốt, “khi xác định tính liên tục thường phải sử dụng khái niệm
tính vô tận, vì cái liên tục được chia ra một cách vô tận” [12; 85].
55