1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH BẮC GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.6 KB, 86 trang )


hành chính. Mặt khác, thi hành án dân sự ở nước ta lại không do toà án - cơ

hành tư pháp tổ chức.

+ Quan điểm thứ hai cho rằng: thi hành án dân sự là một dạng hoạt động

hành chính - tư pháp vì thi hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và

chấp hành quyết định của tòa án - cơ quan tư pháp. Hơn nữa, trong quá trình

thi hành án dân sự còn phải tiến hành các hoạt động mang tính hành chính

như chứng thực bản sao giấy tờ, việc ủy quyền thi hành án dân sự, trước bạ

chuyển quyền sở hữu nhà cho người được thi hành án. Theo quan điểm này,

quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi Tòa án

ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác định quyền, nghĩa

vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác, không thuộc

quá trình tố tụng. Thi hành án dân sự không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì:

Thi hành án dân sự có mục đích khác với mục đích tố tụng,

tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên

thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng

quy định của pháp luật, còn thi hành án dân sự là quá trình tiến

hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật [4, tr. 21].

+ Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp. Bởi

vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các

quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, cơ quan thi

hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo

mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của

các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản

án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức

và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành

án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan



14



thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng

thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính tư pháp vì hoạt động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của

Chính phủ là không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào

không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó. Theo quan điểm này, thì

thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, mang tính tài sản, độc lập và

do cơ quan tư pháp có thẩm quyền tổ chức thực hiện.

Qua nghiên cứu, có thể thấy quan điểm thứ ba là có cơ sở khoa học

hơn cả.

Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử vì xét xử và thi hành

án dân sự là hai mặt của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự. Xét xử là tiền đề của thi hành án, không có xét xử thì không có thi

hành. Ngược lại, thi hành án tiếp nối với xét xử làm cho bản án, quyết định

hiệu lực trên thực tế nên có tác dụng củng cố kết quả xét xử.

Thi hành án dân sự mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự.

Trên thực tế, phần lớn các bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành đều

quyết định các vấn đề về tài sản như chia thừa kế, trách nhiệm bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng v.v… Thông qua thi hành án dân sự, người phải thi

hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của họ và người được thi hành

án dân sự sẽ nhận được các quyền, lợi ích về tài sản.

Thi hành án dân sự mang tính độc lập - đặc trưng của hoạt động tư

pháp. Thi hành án là quá trình diễn ra phức tạp, trong đó cơ quan thi hành án

dân sự thường phải chịu áp lực, tác động từ nhiều phía. Để bảo đảm hiệu quả

của thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên phải

được độc lập và không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp

luật vào quá trình thi hành án dân sự. Vì vậy, khác với các văn bản pháp luật

quy định về thi hành án dân sự được ban hành trước, Pháp lệnh Thi hành án



15



dân sự năm 2004 và Luật Thi hành án dân sự đã quy định cơ quan thi hành án

dân sự tách khỏi các cơ quan tư pháp địa phương, không phụ thuộc về tổ chức

và quản lí của các cơ quan này.

Thi hành án dân sự do cơ quan thi hành án dân sự - cơ quan tư pháp tổ

chức thực hiện. Việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước do nhiều cơ quan

tư pháp thực hiện và tòa án chỉ là một trong các cơ quan đó. Cơ quan thi hành

án dân sự có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền tư pháp của

Nhà nước cho nên cơ quan thi hành án dân sự là một trong các cơ quan tư pháp.

Ngoài ra, để thực hiện các bản án, quyết định được đưa ra thi hành

trong quá trình thi hành án dân sự đôi khi các chủ thể tham gia thi hành án

còn phải tiến hành các hoạt động như yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chứng

thực bản sao giấy tờ, việc ủy quyền thi hành án, trước bạ chuyển quyền sở

hữu nhà cho người được thi hành án v.v… Tuy vậy, những hoạt động này

không phải là hoạt động cơ bản, chỉ mang tính bổ trợ cho việc thi hành bản

án, quyết định dân sự.

Thi hành án dân sự là nhằm mục đích đưa bản án, quyết định dân sự ra

thực hiện trên thực tế. Do vậy, đối tượng thi hành án dân sự trước hết phải là

các bản án quyết định giải quyết các vụ việc dân sự, sau đó là các quyết định

về tài sản trong bản án hình sự, hành chính của tòa án. Theo quy định của

pháp luật, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định

thi hành án dân sự. Tuy vậy, bắt đầu từ năm 2003 pháp luật quy định đối

tượng thi hành án dân sự không chỉ bao gồm bản án, quyết định dân sự của

tòa án, bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng

tài nước ngoài được tòa án công nhận và cho thi hành ở Việt Nam mà còn bao

gồm cả quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại Việt Nam.

Theo quy định tại Điều 57 pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Điều 2

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và Điều 121 Luật Cạnh tranh năm



16



2004 thì quyết định của trọng tài thương mại, hội đồng xử lí vụ việc cạnh

tranh cũng được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Kế thừa các quy

định này, Điều 1 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 tiếp tục quy định đối

tượng thi hành án dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền,

tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lí vật chứng, tài sản,

án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản

trong bản án, quyết định hành chính của tòa án, bản án, quyết định dân sự của

tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được tòa án công nhận

và cho thi hành ở Việt Nam, quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh có liên quan

đến tài sản của bên phải thi hành án của hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và

quyết định của trọng tài thương mại Việt Nam. Vì vậy, theo nghĩa pháp lí thì

thi hành án dân sự là một dạng hoạt động tư pháp trong việc thực hiện bản

án, quyết định dân sự của tòa án và các quyết định của các cơ quan, tổ chức

khác được đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật.

1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói

chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án

chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là

công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp

hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội

chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà

nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu

quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ:

"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải

được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ

trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành" [27].



17



* Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã

hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

Công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng có một ý

nghĩa, vai trò quan trọng trong hoạt động Nhà nước. Thông qua hoạt động thi

hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí

của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá

trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được

thi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự không được quan

tâm và không có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ

hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị vi

phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân bị xâm hại. Thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho

nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cương,

tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, một bản án, quyết định của

Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành trên thực tế cho thấy sự

thiếu nghiêm minh của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo dài

trong nhân dân, tạo kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền, lôi

kéo nói xấu chế độ, kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.

* Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án và

hoạt động tư pháp khác

Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém,

song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết

định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thi

hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua thi hành án, kết quả của

công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án

được đảm bảo. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm



18



qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng

và hiệu quả của hoạt động xét xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với bản chất,

hiện thực khách quan, có lý, có tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi

hơn những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không đúng sự thật,

không phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc

đương sự không tự nguyện thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều

nơi không phải vì cơ quan thi hành án làm sai mà vì không đồng tình với

quyết định của Tòa án nên cố tình trì hoãn việc thi hành án.

* Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của

nhân dân

Đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ

động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ

đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên

quan và sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý

thức trách nhiệm của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành

án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp

hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa

phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua công

tác thi hành án, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ

quan, tổ chức được nâng lên.

1.2. Một số khái niệm trong thi hành án dân sự

1.2.1. Việc thi hành án dân sự

Việc thi hành án dân sự, cụm từ này trong Từ điển tiếng Việt cũng

như các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự chưa có khái niệm chính

thức, song theo qui định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành và ngữ

pháp tiếng Việt, cho thấy:



19



Theo ngữ pháp tiếng Việt thì cụm từ "thi hành" là một động từ để chỉ

hành động hoặc không hành động; "án dân sự" để chỉ bản án, quyết định dân

sự theo quy định của pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự;

Căn cứ pháp luật để thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban hành

Quyết định thi hành án dân sự là Điều 35, 36 Luật Thi hành án dân sự năm

2008, Điều 5 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ về

qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Điều 2

Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010

của Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

và Quyết định dân sự trong Bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại

Điều 2 Luật Thi hành án dân sự;

Tại khoản 3 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự qui định: "Trong thời

hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra Quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành

Quyết định thi hành án đó" [32]; tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự qui định

nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:

Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các

quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung

Bản án, quyết định; áp dụng các qui định của pháp luật về trình tự,

thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp

pháp của đương sự… [32].

Vì vậy, việc thi hành án dân sự cần được hiểu là: việc tổ chức thi hành

quyết định thi hành án dân sự của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự theo

qui định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Việc thi hành án dân sự bao gồm việc thi hành án dân sự có điều kiện

thi hành và việc thi hành án dân sự chưa có điều kiện thi hành. Việc thi hành



20



án dân sự có điều kiện thi hành là trường hợp người phải thi hành bản án,

quyết định dân sự của tòa án có điều kiện thi hành án trong thực tế khi đã xác

minh điều kiện thi hành án. Đó là trường hợp người phải thi hành án có tài

sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản, tự mình hoặc thông qua người

khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Ngược lại, việc thi hành án dân sự chưa

có điều điều kiện thi hành là trường hợp người phải thi hành án chưa có điều

kiện để thi hành bản án, quyết định dân sự trong thực tế. Tức là, người phải

thi hành án không có tài sản, thu nhập để thực hiện nghĩa vụ tài sản hoặc

những vụ việc người phải thi hành án không có khả năng thực hiện các nghĩa

vụ về hành vi.

1.2.2. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án

Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ

quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc

đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án,

quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án

có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp

hành viên ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành

án tẩu tán, hủy hoại tài sản.

Để áp dụng được biện pháp cưỡng chế thi hành án, cần phải hội đủ

các điều kiện sau đây: Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài

sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết

định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ

việc cạnh tranh; người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không

tự nguyện thi hành án.

Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người

phải thi hành án có nghĩa vụ và hành vi phải thực hiện theo quyết định của cơ



21



quan có thẩm quyền, nhất là có thái độ và hành vi không tự nguyện thi hành

án khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3

Luật Thi hành án dân sự năm 2008, có điều kiện thi hành án là trường hợp

người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự

mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc nhất, do

đó, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không được áp dụng

một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Các nguyên

tắc đó là:

- Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, bao

gồm: 1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của

người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. 3. Kê

biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ

ba giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. 5. Buộc chuyển giao

vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi hành án thực

hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định (Điều 71 Luật Thi hành

án dân sự năm 2008).

- Chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự

nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có

hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra,

cơ quan thi hành án dân sự không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực

lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau Tết Nguyên đán; các ngày truyền

thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.

- Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải

thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị

tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.



22



- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết

định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về

mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo

đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay

không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị,

trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc

vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên.

1.2.3. Hoãn thi hành án dân sự

Hoãn thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự quyết định

chưa tổ chức thi hành bản án, quyết định khi có căn cứ pháp luật quy định.

Căn cứ hoãn thi hành án:

+ Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ

cấp huyện trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc

vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực

hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định;

+ Người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi

hành án. Việc đồng ý hoãn phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có

chữ ký của các bên. Trong thời gian hoãn thi hành án do có sự đồng ý của

người được thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất

chậm thi hành án;

+ Người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài

sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi

hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên;

+ Tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý để giải quyết;

+ Việc thi hành án đối với bản án, quyết định có văn bản giải thích

những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày,



23



kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân

sự. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ

ngày nhận được yêu cầu.

+ Việc thi hành án đối với bản án, quyết định đang có trả lời kiến nghị

của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa

án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày

nhận được kiến nghị.

Việc ra quyết định hoãn thi hành án do Thủ trưởng cơ quan thi hành

án dân sự ra quyết định thi hành án thực hiện. Khi có căn cứ hoãn thi hành án

thì chấp hành viên chịu trách nhiệm thi hành án đề nghị thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án. Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án bằng văn bản trong thời hạn 05

ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án.

Hậu quả pháp lý của hoãn thi hành án:

+ Sau khi có quyết định hoãn thi hành án, các hoạt động thi hành án

dân sự được tạm ngừng lại.

+ Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi

hành xong thi cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho

người có yêu cầu hoãn thi hành án.

+ Trong thời hạn hoãn thi hành án, người phải thi hành án không phải

chịu lãi suất chậm thi hành án.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án

không còn, hết thời hạn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền

kháng nghị hoặc nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng

nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì thủ trưởng cơ quan thi hành án

dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.



24



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

×