Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.75 KB, 98 trang )
Chương 2:
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ THỰC TRẠNG THAM GIA TỐ TỤNG
HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị hại.
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị
hại từ 1945 đến trước năm 2003.
Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng trong pháp luật
TTHS. Cho nên sự phát triển về các chế định về người bị hại đề theo sự phát
triển của luật TTHS Vệt Nam. Lịch sử pháp luật TTHS hình sự Việt Nam gắn
liền với lịch sử phát triển pháp luật Việt Nam. Lịch sử phát triển của pháp luật
Việt Nam trải qua rất nhiều thời kỳ. Nhưng chúng ta có thể chia làm các thời kỳ
như: Thời kỳ từ nguồn gốc đến nhà Trần; từ thời kỳ nhà Hồ đến thời kỳ Lê Sơ;
từ thế kỷ XVI, XVII, XVIII đến thời kỳ nhà Nguyễn; thời kỳ thực dân Pháp xâm
lược;từ cách mạng tháng 8 đến 1954…
Thời kỳ thực dân pháp xâm lược có ba Bộ luật hình sự tố tụng khác nhau
được áp dụng tại Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc kỳ. Hiện nay chỉ còn lại Bộ luật hình
sự tố tụng áp ụng tại Bắc kỳ, còn hai Bộ luật còn lại chưa tìm được. Theo nghiên
cứu Bộ luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc Kỳ thì cho thấy theo điều 20 và 51
của Bộ luật này đã quy định các loại người tham gia tố tụng bao gồm: Bị can, bị
cáo, người làm chứng, người bị hại, nhưng lại chưa đưa ra được định nghĩa pháp
lý của khái niệm về những người này [25].
33
Tại điều 9 Bộ luật hình sự tố tụng này quy định về người bị hại như sau:
“Bất cứ người nào phàm đã bị hại về trọng tội, khinh tội, thì đều có quyền xin
minh cứu.
Người bị hại có thể khai miệng hoặc làm đơn mà khống tố với cơ quan
hành chánh hoặc cơ quan tư pháp”. Ngoài ra Bộ luật hình sự tố tụng này còn quy
định cả quyền kháng cáo đối với người bị hại như điều 51 Bộ luật hình sự tố tụng
này quy định: “… Các người bị hại vì tội phạm hoặc vì sự truy tố mà có liệt danh
trong án – không cứ có khống tố hay không- hoặc người đại biểu đúng phép hoặc
người thừa kế của các người ấy”.
Thời kỳ này pháp luật TTHS của nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của
pháp luật TTHS Pháp. Pháp luật hình sự và pháp luật TTHS thời kỳ này đều là
công cụ để thực dân pháp và thế lực tay sai duy trì chế độ thực dân xâm lược cho
nên vị trí, quyền và nghĩa vụ của người bị hại chưa được đề cập nhiều.
Sang đến thời kỳ cách mạnh tháng 8 thành công, Nhà nước Việt nam dân
chủ cộng hoà ra đời. Chính quyền nhân dân thời kỳ này non trẻ phải đối mặt với
những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế nước ta vốn lệ thuộc vào thực dân pháp,
bị phát xít Nhật khai thác triệt để trong Chiến tranh thế giới thứ hai, giờ đây rất
kiệt quệ, tiêu điều. Hơn nữa cả nạn ngoại xâm, Miền Bắc, khoảng 200.000 quân
Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa đồng minh vào áp giải quân Nhật nhưng dã
tâm của chúng là lật đổ chính quyền nhân dân để thành lập chính quyền phản
động tay sai cho chúng. Ở Miền nam, thực dân pháp và sự can thiệp Anh chiếm
Sài gòn mở rộng chiến tranh, tìm cách chiếm các tỉnh ở Nam bộ và Nam Trung
Bộ. Trong tình hình đó mặc dù thù trong giặc ngoài, hoạt động lập pháp nói
chung, hoạt động TTHS nói riêng vẫn được Nhà nước ta quan tâm và vị trí của
34
người bị hại cũng được quan tâm. Tại Điều 18 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22-51945 quy định “Về việc hình, người bị thiệt hại nào đã đầu đơn kiện thì có quyền
kháng cáo để xin tăng hình phạt, tăng bồi thường và khoản bồi hoàn. Nhưng nếu
người đó vì ác ý mà kháng cáo, thì toà án có thể tự mình hoặc theo lời thỉnh cầu
của bị can mà bắt người kháng cáo phải bồi thường một số tiền tương được với
sự thiệt hại gây ra về vật chất cũng như về tinh thần”. Thời kỳ này đã quy định
quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Việc quy định nghĩa vụ bồi thường của
người bị hại trong trường hợp kháng cáo vì ác ý là nhằm nâng cao trách nhiệm
của người bị hại trong việc thực hiện quyền năng của mình.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã được ký kết, Miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, Miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ II đã xác định:
“Đường lối củng cố Miền Bắc của ta là: củng cố và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đảng ta còn xác
định miền Bắc là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước; nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Cho nên pháp luật TTHS hình sự thời kỳ
này phải phục vụ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược cách mạng. Tuy
nhiên pháp luật TTHS hình sự thời kỳ này cũng quan tâm đến địa vị pháp lý của
người tham gia tố tụng trong đó có người bị hại.
Trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo thông tư
16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao đã quy định: “Để bảo vệ
việc xét xử được chính xác, cần xác định rõ tư cách của những người tham gia tố
tụng và những quyền của họ. Tư cách của người tham gia tố tụng khác nhau thì
quyền của họ cũng khác nhau”.
35
Trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo thông tư
16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao lần đầu tiên định nghĩa
pháp lý của khái niệm người bị hại đã được đề cập: “người bị hại là công dân đã
bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, hoặc xâm hại về tinh
thần (như bị lăng nhục, đánh giết, trộm cắp, lừa đảo…). Người đã can thiệp để
ngăn cản bị cáo đánh giết người khác nhưng bản thân cũng bị kẻ phạm tội gây
thương tích, người có nhà cửa bị cháy vì bị cáo đốt nhà của người khác những
đám cháy đã lan sang nhà của họ cũng là người bị xâm hại trực tiếp đến thể chất,
tài sản”
Trong thông tư nói trên cũng quy định quyền của người bị hại, đó là
những quyền “được đề xuất chứng cứ và những lời thỉnh cầu; được yêu cầu bồi
thường và yêu cầu áp dụng biện pháp nhằm bảo đảm bồi thường; được xin thay
đổi thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; được tham gia cuộc thẩm vấn và tranh
luận ở phiên toà về những sự việc đã gây thiệt hại cho mình; được kháng tố theo
quy định của pháp luật để xin tăng hình phạt đối với bị cáo hoặc xin tăng bồi
thường”.
Ngoài ra trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm
theo thông tư số 16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao có đề
cập đến người đại diện của bị hại và một số người tham gia tố tụng khác. Thông
tư này quy định: “Nếu bị cáo hoặc người bị hại là vị thành niên thì cha mẹ hoặc
người giám hộ là đại diện hợp pháp đương nhiên của họ. Những người này cần
được triệu tập đến phiên toà để họ có sử dụng những quyền về tố tụng của bị cáo
hoặc người bị hại, để bảo vệ những lợi ích hợp pháp của bị cáo hoặc người bị
hại”. Người bị hại đã thành niên có thể uỷ nhiệm cho người đại diện cho mình
tham gia tố tụng. Người đại diện có những quyền của người mà mình thay mặt
36
đã uỷ nhiệm trên giấy tờ. Người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại đều
có quyền kháng cáo.
Đến khi có BLTTHS của nước ta được Quốc hội thông qua ngày
28/6/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-1989. Đây là BLTTHS đầu tiên ở
nước ta. Nếu pháp luật TTHS ở thời kỳ trước đó là hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật TTHS đơn hành, thì việc phát điển hoá về TTHS này đánh dấu
một bước tiến lập pháp TTHS của nước ta, Trong BLTTHS năm 1988, thì vấn đề
người bị hại đã được quan tâm và quy định đầy đủ như về định nghĩa thế nào là
người bị hại, quyền và nghĩa vụ của người bị hại cũng được quy định tương đối
rộng chẳng hạn như có quyền yêu cầu, cung cấp tài liệu, đưa ra chứng cứ; tham
gia phiên toà, có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch… . mà pháp luật TTHS của nước ta thời kỳ trước không
quy định. Hơn nữa, BLTTHS năm 1988, đã có quy định khá mới so với luật
TTHS Việt Nam đó là quyền yêu cầu khởi tố. Theo quy định tại điều 88
BLTTHS năm 1988 thì những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1
Điều 109, đoạn 1, khoản 2 Điều 112; đoạn 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116; khoản
1 Điều 117 và Điều 126 Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại. Ngoài ra còn quy định cả quyền rút yêu cầu của người bị hại nhưng
phải trước ngày mở phiên toà. BLTTHS năm 1988, sau nhiều năm thi hành đã
cho thấy có một số vấn đề cấp bách được đặt ra cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm
đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đến ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7 Quốc
hội nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 1988. Trong đó có sửa đổi quy định
về việc người bị hại và người tham gia tố tụng khác có quyền nhờ luật sư; bào
chữa viên nhân dân hoặc người bảo vệ quyền lợi, đồng thời chưa quy định về
37
quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vì vậy, Luật sửa
đổi bổ sung BLTTHS năm 1990 đã bổ sung Điều 42a. Người bảo vệ quyền lợi
của đương sự như sau:
“1. Người bị hại …có quyền nhờ luật sư, bảo chữa viên nhân dân hoặc
người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận, bảo vệ
quyền lợi cho mình.”
Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại có quyền cơ bản giống như
quyền của người bị hại. Ngoài ra điều luật còn quy định trong trường hợp người
bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần,
thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi CQTHTT lấy lời khai của
người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
Qua những điểm trên cho thấy pháp luật về những người tham gia tố tụng
đặc biệt là chế định về người bị hại đã được Nhà nước ta quan tâm xây dựng
trong thời kỳ này. Quyền và nghĩa vụ của bị hại, đại diện cho bị hại đã đựơc quy
định cụ thể rõ ràng thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật TTHS của các cơ quan
tư pháp hình sự.
2.1.2. Quy định về người bị hại của Bộ luật TTHS năm 2003.
Người bị hại và những người tham gia tố tụng khác như: bị can, bị cáo,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án; người làm chứng … Ngoài ra còn có những người đại diện hợp pháp của
người bị hại; bị can; bị cáo; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự…được quy định
tại chương IV (từ Điều 48 đến Điều 61) BLTTHS. Việc xác định đúng tư cách
của người bị hại là rất quan trọng, vì nó liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi
38
ích hợp pháp của họ trong vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 51 BLTTHS
năm 2003 quy định:
1.
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra.
2.
Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a. Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b. Được thông báo kết quả điều tra;
c. Đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi
thường;
đ. Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
e. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà
án về phần bồi thường cũng như về phần hình phạt đối với bị
cáo;
3.
Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên
toà.
4.
Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý
39
do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308
Bộ luật hình sự.
Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp
5.
của họ có quyền quy định tại điều này.
Như vậy, so với quy định của BLTTHS năm 1988. quy định về người bị
hại cũng không có thay đổi bổ sung gì hơn với quy định về người bị hại trong
BLTTHS năm 2003. Theo đó, BLTTHS Việt Nam 2003 vẫn xác định người bị
hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Như
vậy tiêu chí để xác định người bị hại gồm những tiêu chí sau:
-
Trước hết họ phải là con người cụ thể chứ không phải là cơ
quan tổ chức;
-
Họ phải là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc
tài sản;
-
Các thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc tài sản phải là
những thiệt hại do tội phạm gây ra. Nếu đó là những thiệt
hại không phải do tội phạm gây ra thì người bị thiệt hại
không phải là người bị hại; [43, tr2 1-23]
Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, cũng quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại. Ngoài ra người
bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại còn có quyền “nhờ luật sư, bào chữa viên
nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án chấp
nhận bảo vệ quyền lợi cho mình và được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.”
(Khoản 1, 2 Điều 59 BLTTHS năm 2003). Các quyền của người bảo vệ quyền
lợi của người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại về cơ bản họ cũng có
40
quyền như quyền của người bị hại được quy định tại Điều 51 BLTTHS năm
2003.
Trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần thì người bảo vệ quyền và lợi của họ có quyền có
mặt khi CQTHTT lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản
án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ mà mình bảo vệ.
Tại điểm a, b khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: “người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo
kết quả điều tra;”. Theo quy định này người bị hại có quyền đưa ra các chứng
cứ, tài liệu để chứng minh tội phạm và nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của mình và đó cũng là trách nhiệm của cơ quan THTT như theo quy định tại
điều 122 BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: “Khi người tham gia tố tụng
có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cáo
kết quả cho họ biết. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan
điều tra phải hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do. Nếu không đồng ý
thì với kết quả giải quyết của cơ quan điều tra thì họ có quyền khiếu nại.”
Trong quá trình giải quyết vụ án thì người bị hại có quyền yêu cầu thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (điểm c khoản 2
Điều 51, Khoản 2 Điều 43 BLTTHS năm 2003). Trường hợp này là khi người bị
hại thấy có căn cứ quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2003 thì họ có quyền yêu
cầu thay đổi, cụ thể: “Người tiến hành tố tụng là người nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp
pháp, người thân thích của những người trên hoặc của bị can, bị cáo; họ đã
tham gia tố tụng với tư cách là là người bào chữa, người giám định, người phiên
41
dịch hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ không vô tư khách quan trong
khi làm nhiệm vụ.” Theo hướng dẫn tại mục 4 phần I Nghị Quyết số
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy
định chung” của BLTTHS năm 2003 quy định:
b) Người thân thích của người bị hại. nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bị can, bị cáo là người có quan hệ
sau đây với một trong những người này:
- Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi;
- Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột;
- Là cụ nội, cụ ngoại, của một trong những người trên đây; là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; là cháu ruột mà họ là bác ruột, chú ruột, cô
ruột, dì ruột, cậu ruột.
c) Có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ
là ngoài trường hợp quy định tại khoản 1, 2 Điều 42 của BLTTHS thì trong các
trường hợp khác (như trong quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công
tác, quan hệ kinh tế…) có căn cứ rõ ràng để có thể khẳmg định là Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án không thể vô tư khách quan trong khi làm
nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm là anh em kết nghĩa của bị can, bị cáo; Thẩm phán là
con rể của bị cáo…
Khi tham gia phiên toà người bị hại còn có quyền trình bày ý kiến, tranh
luận tại phiên toà (điểm d khoản 2 Điều 51BLTTHS). Theo quy định tại khoản 3
Điều 217 thì “người bị hại được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của
mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày ý
42
kiến bổ sung.” Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội
tại phiên toà (khoản 3 Điều 51 BLTTHS). Tại mục 7 Phần I Nghị quyết
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy
định chung” của BLTTHS năm 2003 hướng dẫn: “BLTTHS không quy định cụ
thể người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại
phiên toà vào lúc nào. Tuy nhiên, việc người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà phải thực hiện theo quy định
chung của BLTTHS về phiên toà sơ thẩm; do đó, việc người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà được thực hiện theo
trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên toà quy định tại Điều 217 BLTTHS”.
Như vậy, đây là một quyền rất quan trọng của người bị hại nhằm để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên họ có quyền được trình bày ý kiến và tranh
luận tại phiên toà để nhằm bảo vệ quyền lợi của mình và góp phần làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án.
Khi vụ án được Toà án đưa ra xét xử và có bản án hoặc quyết định của
Toà án nếu không đồng ý thì họ có quyền kháng cáo bản án, quyết định đó. Tại
điểm e khoản 2 Điều 51 quy định; “người bị hại có quyền kháng cáo bản án,
quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về phần hình phạt”. Điều
231 BLTTHS quy định: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Theo quy định tại Điều 231
BLTTHS thì người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm nếu họ không đồng ý. Tại mục 1 phần I Nghị
quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án
43