1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ THỰC TRẠNG THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.75 KB, 98 trang )


Chương 2:

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ NGƯỜI BỊ HẠI VÀ THỰC TRẠNG THAM GIA TỐ TỤNG

HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị hại.

2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị

hại từ 1945 đến trước năm 2003.

Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng trong pháp luật

TTHS. Cho nên sự phát triển về các chế định về người bị hại đề theo sự phát

triển của luật TTHS Vệt Nam. Lịch sử pháp luật TTHS hình sự Việt Nam gắn

liền với lịch sử phát triển pháp luật Việt Nam. Lịch sử phát triển của pháp luật

Việt Nam trải qua rất nhiều thời kỳ. Nhưng chúng ta có thể chia làm các thời kỳ

như: Thời kỳ từ nguồn gốc đến nhà Trần; từ thời kỳ nhà Hồ đến thời kỳ Lê Sơ;

từ thế kỷ XVI, XVII, XVIII đến thời kỳ nhà Nguyễn; thời kỳ thực dân Pháp xâm

lược;từ cách mạng tháng 8 đến 1954…

Thời kỳ thực dân pháp xâm lược có ba Bộ luật hình sự tố tụng khác nhau

được áp dụng tại Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc kỳ. Hiện nay chỉ còn lại Bộ luật hình

sự tố tụng áp ụng tại Bắc kỳ, còn hai Bộ luật còn lại chưa tìm được. Theo nghiên

cứu Bộ luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc Kỳ thì cho thấy theo điều 20 và 51

của Bộ luật này đã quy định các loại người tham gia tố tụng bao gồm: Bị can, bị

cáo, người làm chứng, người bị hại, nhưng lại chưa đưa ra được định nghĩa pháp

lý của khái niệm về những người này [25].



33



Tại điều 9 Bộ luật hình sự tố tụng này quy định về người bị hại như sau:

“Bất cứ người nào phàm đã bị hại về trọng tội, khinh tội, thì đều có quyền xin

minh cứu.

Người bị hại có thể khai miệng hoặc làm đơn mà khống tố với cơ quan

hành chánh hoặc cơ quan tư pháp”. Ngoài ra Bộ luật hình sự tố tụng này còn quy

định cả quyền kháng cáo đối với người bị hại như điều 51 Bộ luật hình sự tố tụng

này quy định: “… Các người bị hại vì tội phạm hoặc vì sự truy tố mà có liệt danh

trong án – không cứ có khống tố hay không- hoặc người đại biểu đúng phép hoặc

người thừa kế của các người ấy”.

Thời kỳ này pháp luật TTHS của nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của

pháp luật TTHS Pháp. Pháp luật hình sự và pháp luật TTHS thời kỳ này đều là

công cụ để thực dân pháp và thế lực tay sai duy trì chế độ thực dân xâm lược cho

nên vị trí, quyền và nghĩa vụ của người bị hại chưa được đề cập nhiều.

Sang đến thời kỳ cách mạnh tháng 8 thành công, Nhà nước Việt nam dân

chủ cộng hoà ra đời. Chính quyền nhân dân thời kỳ này non trẻ phải đối mặt với

những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế nước ta vốn lệ thuộc vào thực dân pháp,

bị phát xít Nhật khai thác triệt để trong Chiến tranh thế giới thứ hai, giờ đây rất

kiệt quệ, tiêu điều. Hơn nữa cả nạn ngoại xâm, Miền Bắc, khoảng 200.000 quân

Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa đồng minh vào áp giải quân Nhật nhưng dã

tâm của chúng là lật đổ chính quyền nhân dân để thành lập chính quyền phản

động tay sai cho chúng. Ở Miền nam, thực dân pháp và sự can thiệp Anh chiếm

Sài gòn mở rộng chiến tranh, tìm cách chiếm các tỉnh ở Nam bộ và Nam Trung

Bộ. Trong tình hình đó mặc dù thù trong giặc ngoài, hoạt động lập pháp nói

chung, hoạt động TTHS nói riêng vẫn được Nhà nước ta quan tâm và vị trí của



34



người bị hại cũng được quan tâm. Tại Điều 18 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22-51945 quy định “Về việc hình, người bị thiệt hại nào đã đầu đơn kiện thì có quyền

kháng cáo để xin tăng hình phạt, tăng bồi thường và khoản bồi hoàn. Nhưng nếu

người đó vì ác ý mà kháng cáo, thì toà án có thể tự mình hoặc theo lời thỉnh cầu

của bị can mà bắt người kháng cáo phải bồi thường một số tiền tương được với

sự thiệt hại gây ra về vật chất cũng như về tinh thần”. Thời kỳ này đã quy định

quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Việc quy định nghĩa vụ bồi thường của

người bị hại trong trường hợp kháng cáo vì ác ý là nhằm nâng cao trách nhiệm

của người bị hại trong việc thực hiện quyền năng của mình.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã được ký kết, Miền

Bắc hoàn toàn được giải phóng, Miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay

sai thống trị. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ II đã xác định:

“Đường lối củng cố Miền Bắc của ta là: củng cố và phát triển chế độ dân chủ

nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đảng ta còn xác

định miền Bắc là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước; nhiệm vụ của cách

mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và

tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Cho nên pháp luật TTHS hình sự thời kỳ

này phải phục vụ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược cách mạng. Tuy

nhiên pháp luật TTHS hình sự thời kỳ này cũng quan tâm đến địa vị pháp lý của

người tham gia tố tụng trong đó có người bị hại.

Trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo thông tư

16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao đã quy định: “Để bảo vệ

việc xét xử được chính xác, cần xác định rõ tư cách của những người tham gia tố

tụng và những quyền của họ. Tư cách của người tham gia tố tụng khác nhau thì

quyền của họ cũng khác nhau”.



35



Trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo thông tư

16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao lần đầu tiên định nghĩa

pháp lý của khái niệm người bị hại đã được đề cập: “người bị hại là công dân đã

bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, hoặc xâm hại về tinh

thần (như bị lăng nhục, đánh giết, trộm cắp, lừa đảo…). Người đã can thiệp để

ngăn cản bị cáo đánh giết người khác nhưng bản thân cũng bị kẻ phạm tội gây

thương tích, người có nhà cửa bị cháy vì bị cáo đốt nhà của người khác những

đám cháy đã lan sang nhà của họ cũng là người bị xâm hại trực tiếp đến thể chất,

tài sản”

Trong thông tư nói trên cũng quy định quyền của người bị hại, đó là

những quyền “được đề xuất chứng cứ và những lời thỉnh cầu; được yêu cầu bồi

thường và yêu cầu áp dụng biện pháp nhằm bảo đảm bồi thường; được xin thay

đổi thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; được tham gia cuộc thẩm vấn và tranh

luận ở phiên toà về những sự việc đã gây thiệt hại cho mình; được kháng tố theo

quy định của pháp luật để xin tăng hình phạt đối với bị cáo hoặc xin tăng bồi

thường”.

Ngoài ra trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm

theo thông tư số 16/TATC ngày 27-9-1974 của Toà án nhân dân tối cao có đề

cập đến người đại diện của bị hại và một số người tham gia tố tụng khác. Thông

tư này quy định: “Nếu bị cáo hoặc người bị hại là vị thành niên thì cha mẹ hoặc

người giám hộ là đại diện hợp pháp đương nhiên của họ. Những người này cần

được triệu tập đến phiên toà để họ có sử dụng những quyền về tố tụng của bị cáo

hoặc người bị hại, để bảo vệ những lợi ích hợp pháp của bị cáo hoặc người bị

hại”. Người bị hại đã thành niên có thể uỷ nhiệm cho người đại diện cho mình

tham gia tố tụng. Người đại diện có những quyền của người mà mình thay mặt



36



đã uỷ nhiệm trên giấy tờ. Người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại đều

có quyền kháng cáo.

Đến khi có BLTTHS của nước ta được Quốc hội thông qua ngày

28/6/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-1989. Đây là BLTTHS đầu tiên ở

nước ta. Nếu pháp luật TTHS ở thời kỳ trước đó là hệ thống các văn bản quy

phạm pháp luật TTHS đơn hành, thì việc phát điển hoá về TTHS này đánh dấu

một bước tiến lập pháp TTHS của nước ta, Trong BLTTHS năm 1988, thì vấn đề

người bị hại đã được quan tâm và quy định đầy đủ như về định nghĩa thế nào là

người bị hại, quyền và nghĩa vụ của người bị hại cũng được quy định tương đối

rộng chẳng hạn như có quyền yêu cầu, cung cấp tài liệu, đưa ra chứng cứ; tham

gia phiên toà, có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch… . mà pháp luật TTHS của nước ta thời kỳ trước không

quy định. Hơn nữa, BLTTHS năm 1988, đã có quy định khá mới so với luật

TTHS Việt Nam đó là quyền yêu cầu khởi tố. Theo quy định tại điều 88

BLTTHS năm 1988 thì những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1

Điều 109, đoạn 1, khoản 2 Điều 112; đoạn 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116; khoản

1 Điều 117 và Điều 126 Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của

người bị hại. Ngoài ra còn quy định cả quyền rút yêu cầu của người bị hại nhưng

phải trước ngày mở phiên toà. BLTTHS năm 1988, sau nhiều năm thi hành đã

cho thấy có một số vấn đề cấp bách được đặt ra cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm

đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đến ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7 Quốc

hội nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, đã thông qua Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 1988. Trong đó có sửa đổi quy định

về việc người bị hại và người tham gia tố tụng khác có quyền nhờ luật sư; bào

chữa viên nhân dân hoặc người bảo vệ quyền lợi, đồng thời chưa quy định về



37



quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vì vậy, Luật sửa

đổi bổ sung BLTTHS năm 1990 đã bổ sung Điều 42a. Người bảo vệ quyền lợi

của đương sự như sau:

“1. Người bị hại …có quyền nhờ luật sư, bảo chữa viên nhân dân hoặc

người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận, bảo vệ

quyền lợi cho mình.”

Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại có quyền cơ bản giống như

quyền của người bị hại. Ngoài ra điều luật còn quy định trong trường hợp người

bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần,

thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi CQTHTT lấy lời khai của

người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án có

liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

Qua những điểm trên cho thấy pháp luật về những người tham gia tố tụng

đặc biệt là chế định về người bị hại đã được Nhà nước ta quan tâm xây dựng

trong thời kỳ này. Quyền và nghĩa vụ của bị hại, đại diện cho bị hại đã đựơc quy

định cụ thể rõ ràng thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật TTHS của các cơ quan

tư pháp hình sự.

2.1.2. Quy định về người bị hại của Bộ luật TTHS năm 2003.

Người bị hại và những người tham gia tố tụng khác như: bị can, bị cáo,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ

án; người làm chứng … Ngoài ra còn có những người đại diện hợp pháp của

người bị hại; bị can; bị cáo; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự…được quy định

tại chương IV (từ Điều 48 đến Điều 61) BLTTHS. Việc xác định đúng tư cách

của người bị hại là rất quan trọng, vì nó liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi



38



ích hợp pháp của họ trong vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 51 BLTTHS

năm 2003 quy định:

1.



Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản

do tội phạm gây ra.



2.



Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:

a. Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

b. Được thông báo kết quả điều tra;

c. Đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

d. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi

thường;

đ. Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

e. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà

án về phần bồi thường cũng như về phần hình phạt đối với bị

cáo;



3.



Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị

hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc

người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên

toà.



4.



Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý



39



do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308

Bộ luật hình sự.

Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp



5.



của họ có quyền quy định tại điều này.

Như vậy, so với quy định của BLTTHS năm 1988. quy định về người bị

hại cũng không có thay đổi bổ sung gì hơn với quy định về người bị hại trong

BLTTHS năm 2003. Theo đó, BLTTHS Việt Nam 2003 vẫn xác định người bị

hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Như

vậy tiêu chí để xác định người bị hại gồm những tiêu chí sau:

-



Trước hết họ phải là con người cụ thể chứ không phải là cơ

quan tổ chức;



-



Họ phải là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc

tài sản;



-



Các thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc tài sản phải là

những thiệt hại do tội phạm gây ra. Nếu đó là những thiệt

hại không phải do tội phạm gây ra thì người bị thiệt hại

không phải là người bị hại; [43, tr2 1-23]



Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, cũng quy định cụ thể về quyền và

nghĩa vụ của người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại. Ngoài ra người

bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại còn có quyền “nhờ luật sư, bào chữa viên

nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án chấp

nhận bảo vệ quyền lợi cho mình và được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.”

(Khoản 1, 2 Điều 59 BLTTHS năm 2003). Các quyền của người bảo vệ quyền

lợi của người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại về cơ bản họ cũng có



40



quyền như quyền của người bị hại được quy định tại Điều 51 BLTTHS năm

2003.

Trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược

điểm về thể chất hoặc tinh thần thì người bảo vệ quyền và lợi của họ có quyền có

mặt khi CQTHTT lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản

án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ mà mình bảo vệ.

Tại điểm a, b khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: “người bị hại hoặc người đại

diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo

kết quả điều tra;”. Theo quy định này người bị hại có quyền đưa ra các chứng

cứ, tài liệu để chứng minh tội phạm và nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của mình và đó cũng là trách nhiệm của cơ quan THTT như theo quy định tại

điều 122 BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: “Khi người tham gia tố tụng

có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cáo

kết quả cho họ biết. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan

điều tra phải hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do. Nếu không đồng ý

thì với kết quả giải quyết của cơ quan điều tra thì họ có quyền khiếu nại.”

Trong quá trình giải quyết vụ án thì người bị hại có quyền yêu cầu thay

đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (điểm c khoản 2

Điều 51, Khoản 2 Điều 43 BLTTHS năm 2003). Trường hợp này là khi người bị

hại thấy có căn cứ quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2003 thì họ có quyền yêu

cầu thay đổi, cụ thể: “Người tiến hành tố tụng là người nguyên đơn dân sự, bị

đơn dân sự, người có quyền nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp

pháp, người thân thích của những người trên hoặc của bị can, bị cáo; họ đã

tham gia tố tụng với tư cách là là người bào chữa, người giám định, người phiên



41



dịch hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ không vô tư khách quan trong

khi làm nhiệm vụ.” Theo hướng dẫn tại mục 4 phần I Nghị Quyết số

03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân

tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy

định chung” của BLTTHS năm 2003 quy định:

b) Người thân thích của người bị hại. nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bị can, bị cáo là người có quan hệ

sau đây với một trong những người này:

- Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi;

- Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột;

- Là cụ nội, cụ ngoại, của một trong những người trên đây; là bác ruột,

chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; là cháu ruột mà họ là bác ruột, chú ruột, cô

ruột, dì ruột, cậu ruột.

c) Có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ

là ngoài trường hợp quy định tại khoản 1, 2 Điều 42 của BLTTHS thì trong các

trường hợp khác (như trong quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công

tác, quan hệ kinh tế…) có căn cứ rõ ràng để có thể khẳmg định là Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án không thể vô tư khách quan trong khi làm

nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm là anh em kết nghĩa của bị can, bị cáo; Thẩm phán là

con rể của bị cáo…

Khi tham gia phiên toà người bị hại còn có quyền trình bày ý kiến, tranh

luận tại phiên toà (điểm d khoản 2 Điều 51BLTTHS). Theo quy định tại khoản 3

Điều 217 thì “người bị hại được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của

mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày ý



42



kiến bổ sung.” Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị

hại thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội

tại phiên toà (khoản 3 Điều 51 BLTTHS). Tại mục 7 Phần I Nghị quyết

03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân

tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy

định chung” của BLTTHS năm 2003 hướng dẫn: “BLTTHS không quy định cụ

thể người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại

phiên toà vào lúc nào. Tuy nhiên, việc người bị hại hoặc người đại diện hợp

pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà phải thực hiện theo quy định

chung của BLTTHS về phiên toà sơ thẩm; do đó, việc người bị hại hoặc người

đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà được thực hiện theo

trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên toà quy định tại Điều 217 BLTTHS”.

Như vậy, đây là một quyền rất quan trọng của người bị hại nhằm để đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên họ có quyền được trình bày ý kiến và tranh

luận tại phiên toà để nhằm bảo vệ quyền lợi của mình và góp phần làm sáng tỏ

sự thật khách quan của vụ án.

Khi vụ án được Toà án đưa ra xét xử và có bản án hoặc quyết định của

Toà án nếu không đồng ý thì họ có quyền kháng cáo bản án, quyết định đó. Tại

điểm e khoản 2 Điều 51 quy định; “người bị hại có quyền kháng cáo bản án,

quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về phần hình phạt”. Điều

231 BLTTHS quy định: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền

kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Theo quy định tại Điều 231

BLTTHS thì người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo

toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm nếu họ không đồng ý. Tại mục 1 phần I Nghị

quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án



43



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

×