1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

CHƯƠNG 3: CÁC THỦ PHÁP CHUYỂN DỊCH TỪ NGỮ ẨM THỰC TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 165 trang )


phối của nhiều nhân tố trong việc ưu tiên lựa chọn một bình diện, một khía cạnh

tương đương này hay khác.

Tương đương dịch thuật chỉ ra mối quan hệ giữa văn bản nguồn và văn

bản đích và mối quan hệ này chỉ được xác định trong một văn bản cụ thể.

Khái niệm tương đương luôn luôn gây tranh cãi bởi không thể "dịch tương

đương" được do nhiều yếu tố, trong đó có những dị biệt về ngôn ngữ và cả

những nền văn hóa khác biệt. Nhiều nhà ngôn ngữ học còn phủ nhận khả

năng tương đương trong dịch thuật. Khoa học dịch thuật cũng cố gắng tìm ra

những tương đương về hình thức và nội dung trong khi chuyển dịch.

Tương đương dịch thuật chỉ thực sự trở thành một khái niệm khoa học

khi các nhà nghiên cứu thay thế quan điểm ngữ văn học bằng quan điểm ngôn

ngữ học. Nói đến bản chất TĐDT, các tác giả theo quan điểm ngôn ngữ học

cấu trúc nhán mạnh trước hết đến sự thống nhất giữa tương đương về nghĩa và

tương đương về hình thức, trong đó tương đương về nghĩa đóng vai trò quyết

định.

Theo Newmark (1986), khái niệm tương đương không phải là để chỉ sự

bằng nhau/ cân đối về nghĩa mà là một quy trình chuyển dịch, ví dụ "tương

đương văn hóa", "tương đương chức năng" và quy trình này được hiểu là

những quy tắc chuyển dịch. Và theo ông TĐDT chỉ có ở những đối tượng

tổng hợp ngoài ngôn ngữ, rất ít có cấp độ danh từ và động từ và không có ở

cấp độ văn bản.

Các tương đương dịch thuật chỉ trở thành các yếu tố văn bản có thể trao

đổi được trong ngôn ngữ nếu chúng ta hoạt động trong một tình huống tương

tự. Đây không phải là sự giống về nội dung mà là tương đương tình huống với

sự vận hành của các yếu tố.



83



Tương đương trong văn học chỉ ra một yêu cầu trừu tượng về tính

tương đồng của một số phương diện nhất định trong văn bản gốc và văn bản

dịch và mối tương quan giữa toàn bộ văn bản và các đơn vị chuyển dịch.

Ngược lại, những yếu tố cú pháp để hiện thực hóa "tính đồng trị" được gọi là

các tương đương. Nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề tương đương dịch thuật

"tương đương chỉ là một ảo tưởng" hay "có thể tương đương được với văn

bản gốc". Những quan niệm này đưa ra không có tính thuyết phục và khái

niệm tương đương luôn được các nhà ngôn ngữ học, các dịch giả thay đổi

theo mỗi thời điểm khác nhau.

Nhìn chung, tương đương dịch thuật chỉ ra mối quan hệ được xác định

trong một văn bản cụ thể giữa văn bản nguồn và văn bản đích và mối quan hệ

này chỉ có thể được xác định trong một văn bản cụ thể. Các yếu tố cụ thể ở

các cấp độ khác nhau không thể đảm bảo mức độ tương đương như nhau

được, bởi vì những dị biệt giữa các ngôn ngữ và các nền văn hóa rất lớn.

Cũng vì như vậy, nên khái niệm tương đương dịch thuật là khái niệm gây

nhiều tranh cãi, thậm chí một số nhà ngôn ngữ còn phủ nhật khả năng chuyển

dịch tương đương. Dịch thuật học thì cố tìm ra những tiêu chí cụ thể để đánh

giá sự tương đương về hình thức và nội dung giữa các văn bản ở những ngôn

ngữ khác nhau. Vì trên thực tế, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang diễn ra mạnh

mẽ, dù các nhà ngôn ngữ có phủ nhận tính tương đương trong dịch thuật thì

các tác phẩm nổi tiếng vẫn được dịch sang rất nhiều thứ tiếng khác nhau.

Trong các văn bản dịch, cùng một nguồn nhưng có nhiều hình thức dịch khác

nhau dù vẫn đảm bảo nội dung. Vì thế ranh giới giữa hình thức và nội dung

rất khó xác định, bởi vì trong dịch thuật luôn chịu tác động thông qua phân

tích chủ quan của dịch giả.



84



3.1.2. Các kiểu tương đương dịch thuật

Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Cổn (2006) đã phân chia các TĐDT

thành 2 nhóm với 6 kiểu tương đương. Để phân chia được như vậy, tác giả

Nguyễn Hồng Cổn đã xem xét sự có mặt/vắng mặt 4 bình diện được nêu trong

quá trình chuyển dịch là tương đương ngữ âm, tương đương ngữ pháp, tương

đương ngữ nghĩa, tương đương ngữ dụng. Tác giả chia ra:

Tương đương hoàn toàn

Tương đương hoàn toàn tuyệt đối

Đây là kiểu tương đương với nhau trên cả 4 bình điện ngữ âm, ngữ

pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Ở cấp độ từ, đó là việc dịch bằng cách dùng lại

các từ mà ngữ đích vay mượn trực tiếp từ ngữ nguồn bằng cách phiên âm hay

để nguyên dạng (ví dụ như cà phê, axit, đôla, internet, Paris). Ở cấp độ câu,

kiểu tương đương tuyệt đối chỉ xảy ra khi các ngôn ngữ có quan hệ họ hàng

rất gần gũi hoặc có quan hệ tiếp xúc lâu, ví dụ tiếng Hán và tiếng Việt có khả

năng xảy ra trường hợp này.

Tuy nhiên, do hệ thống ngữ âm của các ngôn ngữ là khác nhau rất lớn

nên tương đương hoàn tuyệt đối hầu như rất ít.

Tương đương hoàn toàn tương đối

Là các tương đương thỏa mãn 3 bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ

dụng. Ở cấp độ từ, đó là các tương đương đồng nghĩa ngữ cảnh và phi ngữ

cảnh đã nói ở trên. Tuy nhiên, do những khác biệt về đặc điểm ngôn ngữ giữa

các ngôn ngữ nên có không ít những đơn vị không thể dịch được tương đương

hoàn toàn, hoặc nếu cố gắng dịch sẽ tạo nên những đơn vị đối dịch thiếu tính

tự nhiên.



85



Các tương đương bộ phận

Là các tương đương chỉ tương ứng với nhau trên một hoặc hai bình

diện chúng gồm các kiểu sau:

Tương đương ngữ pháp - ngữ nghĩa

Đây là kiểu tương đương mà do sự khác biệt tinh tế giữa 2 ngôn ngữ

người dịch không thể chuyển tải được hết các thông tin dụng học khác nhau

của đơn vị dịch. Ví dụ dịch các từ, vợ, phu nhân, bà xã... trong tiếng Việt khi

chuyển dịch sang tiếng Anh chỉ có một từ duy nhất là wife, từ này không thể

diễn tả được hết sắc thái biểu cảm mà những từ tiếng Việt trên kia có được.

Kiểu tương đương này thường được dùng dịch chú giải nghĩa nguyên văn của

câu chứ ít dùng trong dịch giao tiếp.

Tương đương ngữ pháp - ngữ dụng

Là kiểu tương đương trong đó các đơn vị dịch của VBN và VBĐ chỉ

tương đương nhau về ngữ pháp và ngữ dụng nhưng không tương đương về

ngữ nghĩa. Ở cấp độ từ, trường hợp này xảy ra khi một từ của ngữ đích khác

hẳn về nghĩa sở biểu nhưng tương đương về mặt phạm trù từ loại, và nghĩa

liên hội hay nghĩa biểu cảm.

Đây là kiểu tương đương phổ biến nhất. Ở kiểu tương đương này, đơn

vị gốc và đơn vị đối dịch có nghĩa biểu hiện và nhigã nữ dụng tương ứng với

nhau nhưng giữa chúng có những khác biệt nhất định về mặt ngữ pháp. Các

ngôn ngữ càng xa nhau về loại hình, độ dài của đơn vị dịch càng lớn thì mức

độ khác biệt ngữ pháp của các tương đương kiểu này càng phức tạp. Ví dụ,

khi dịch thành ngữ xấu như ma sang tiếng Anh sẽ là as ugly as a scarecrow

thì người Anh sẽ hiểu, vì trong tiếng Anh từ ghost không làm họ liên tưởng



86



tới đặc điểm xấu. Vì vậy, kiểu tương đương này chỉ tương đương ở 2 góc độ

ngữ pháp và ngữ dụng.

Tương đương ngữ nghĩa - ngữ dụng

Là tương đương phổ biến nhất. Ở kiểu tương đương này đơn vị gốc và

đơn vị đối dịch có nghĩa biểu hiện và nghĩa ngữ dụng tương ứng với nhau

nhưng giữa chúng có những khác biệt nhất định về mặt ngữ pháp. Ví dụ:

- Thank you for your help - cảm ơn anh đã giúp đỡ.

- It's too hot to eat - nước quá nóng nên không thể uống được.

Các ngôn ngữ khác nhau về loại hình, độ dài đơn vị dịch càng lớn thì

mức độ khác biệt ngữ pháp của các tương đương kiểu này càng phức tạp và

khác xa nhau cả về phạm trù từ loại, trật tự từ và cấu trúc cú pháp.

Tương đương thuần ngữ dụng

Đây là kiểu tương đương tự do nhất, trong đó các khía cạnh tương

đương khác nhau về thông tin ngữ dụng hầu như độc lập với tương đương

ngữ pháp và ngữ nghĩa, và nếu chúng ta cố liên kết chúng khi dịch, câu đối

dịch sẽ trở nên vô nghĩa giống như dịch từng từ. Kiểu tương đương này

thường gặp khi dịch các câu có tính nghi thức hoặc tình thành ngữ cao, ví dụ:

- How do you do? Xin chào

- Would you like to join us for dinner this evening? Mời chị đi ăn tối

cùng chúng tôi tối nay.

3.2. Các khả năng tương đương của từ ngữ ẩm thực tiếng

Việt sang tiếng Anh

3.2.1 Tương đương hoàn toàn



87



Tương đương hoàn toàn tuyệt đối là các tương đương dịch thuật tương

đương với nhau trên cả bốn bình diện ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ

dụng. Ở cấp độ từ, việc dịch này bằng cách dùng lại các từ mà ngữ đích vay

mượn trực tiếp từ ngữ nguồn bằng cách phiên âm hay để nguyên dạng.

Theo các tiêu chí trên, chỉ có duy nhất trường hợp từ "phở" được

chuyển sang tiếng Anh là giữ nguyên dạng.

Phở: phở

Còn lại những đơn vị từ ngữ ẩm thực tiếng Việt được chuyển dịch

tương đương hoàn toàn tuyệt đối hầu hết là các món ăn nước ngoài được du

nhập vào Việt Nam. Đó thực chất là những từ mượn có nguồn gốc Ấn - Âu

nên khi chuyển dịch tương đương thực chất là trở về gốc của nó, ví dụ:

Salat - salad

Súp: soup

Cà phê: coffee

Bit-tết: Beefsteak

Món salat, món súp, cà phê, du nhập vào Việt Nam được giữ nguyên

âm và sắc thái nghĩa vẫn được giữ nguyên. Những từ thuộc loại này có số

lượng rất ít, một phần do loại hình ngôn ngữ của tiếng Anh và tiếng Việt khác

biệt nhau rất nhiều và có nhiều khác biệt về trật tự từ. Trường hợp từ phở

được chuyển dịch sang tiếng Anh được giữ nguyên dạng một phần do tính

"dân tộc" nổi bật của món phở. Hầu như du khách đến Việt Nam và đặc biệt

là Hà Nội ai cũng biết món phở. Từ Phở này cũng đã được đưa vào từ điển

Oxford, một từ điển nổi tiếng vào bậc nhất trên thế giới trong cộng đồng Anh

ngữ. Với những món ăn nổi tiếng, mang nét đặc trưng dân tộc, dường như



88



thực khách thưởng thức sẽ thấy được hương vị của nó và thưởng thức được

cái "hồn dân tộc" trong cái tên gọi của nó.

3.2.2. Tương đương bộ phận

Các tương đương bộ phận là các TDDT tương ứng với nhau trên một

hoặc hai bình diện bao gồm: tương đương ngữ pháp – ngữ nghĩa, tương

đương ngữ pháp – ngữ dụng, tương đương ngữ nghĩa – ngữ dụng và tương

đương thuần ngữ dụng. Trong các kiểu tương đương này, hầu hết từ ngữ ẩm

thực tiếng Việt chuyển dịch sang tiếng Anh là tương đương ngữ nghĩa – ngữ

dụng. Theo cách hiểu của chúng tôi, từ ngữ ẩm thực tiếng Việt thường được

chuyển dịch theo cách này vì đơn vị gốc và đơn vị đối dịch có nghĩa biểu hiện

và nghĩa ngữ dụng – giá trị thông báo, đích ngôn trung tương ứng với nhau

nhưng giữa chúng có sự khác biệt nhất định về mặt ngữ pháp. Hơn nữa mục

đích chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng tiếng Việt sang tiếng Anh là mong

muốn những người nước ngoài thưởng thức món ăn Việt có thể hình dung

được món ăn đó được nấu từ những nguyên liệu nào hay phương thức nào. Ví

dụ:

Gà rang gừng: Grilled chicken with ginger (món gà rang với gừng)

Gà xào chua ngọt: Sweet and sour chicken ( món gà có vị ngọt và chua)

Bánh đậu xanh: Green bean cake (bánh đậu xanh)

Bánh rán nhân thịt: Glutious rice doughnut meat pie (bánh gạo nếp và nhân thịt)

Gà quay: Roasted chicken

Tôm nướng cùng phomai: Gilled shrimp with cheese (tôm nướng cùng phomai)

Tôm hấp nước dừa: Steamed shrimps in coconut juice



89



Với cách chuyển dịch này, người thưởng thức món ăn có thể hiểu một

đặc trưng nổi bật của món ăn. Cách chuyển dịch này là cách dịch phổ biến các

từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh. Chuyển tải được nội dung của

"món ăn", cũng đạt được một phần của mục đích.

Bên cạnh đó, nhiều món ăn cũng có nguồn gốc Ấn-Âu, du nhập vào

Việt Nam nên hầu như vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn ngữ nghĩa như:

Bánh mỳ: bread

Bánh táo: apple pie

Bánh ngọt: cake

Bánh bích quy: biscuit

Bánh gato: gateau

Bánh kẹp: pancake

Bánh xốp: wafer

Bánh sừng bò: croissant

Thịt muối: bacon

Pho mát: cheese

Mỳ, miến, phở: noodle

Trong những ví dụ trên, chỉ có trường hợp mỳ, miến, phở chuyển dịch

sang là noodle - 3 từ tương ứng với 1 từ chuyển dịch. Còn lại những trường

hợp kia là tương đương 1:1. Vì các món ăn này có sự tương ứng ở cả 2 nền

văn hóa ẩm thực.

Nhưng với cách chuyển dịch trên, cũng có một số đơn vị từ bảo lưu

được tên gọi gốc do tính lịch sử và truyền thống của món ăn đó, bánh chưng

với những tính chất đặc biệt của nó chỉ có trong nền ẩm thực văn hóa Việt



90



Nam nên bánh chưng hầu như được dịch sang Chưng cake, trước đây mọi

người thường sử dụng cách dịch Square cake (có nghĩa là bánh có hình

vuông), chỉ riêng món phở ngoài một số cách dịch nghĩa để chuyển tải nội

dung, còn có một cách dịch khác mà thời gian gần đây được người nước

ngoài biết đến nhiều do sự nổi tiếng của nó ở Việt Nam là giữ nguyên Phở.

Còn nhiều đơn vị từ ngữ ẩm thực tiếng Việt khi chuyển dịch sang tiếng Anh

đã mất đi nhiều nét văn hóa vốn có của nó do những khác biệt về vị trí địa lý

cũng như văn hóa. Hơn nữa, có những thực thể mà ở nước này có nhưng nước

khác không có, ví dụ bánh được làm từ gạo nếp và nhân đậu có ở Việt Nam

nhưng tìm kiếm một loại bánh tương tự như vậy ở nước Anh sẽ rất khó có

được. Điều đó cũng thực dễ lý giải, mỗi vùng đất có những đặc thù về nông

nghiệp trồng trọt và chăn nuôi khác nhau, ở những nước như Anh, lúa mạch,

lúa mỳ dễ trồng nên việc tạo nên những món ăn từ nguyên liệu đó sẽ nhiều

hơn là những nước không tự tạo ra nguyên liệu đó. Do thế, phương Tây có

bánh gatô, bánh làm từ bột mỳ (wheat), bơ (cheese) có bánh kem

(cheesecake). Ở Việt Nam các loại bánh làm từ cùng một nguyên liệu rất có

nhiều, ví dụ như bánh dẻo, bánh nếp, bánh dày, bánh ít… đều làm từ gạo nếp

(sticky, glutinous rice) với những cách thức khác nhau ví dụ, glutinous rice

cake, kind of rice cake (bánh được làm từ một loại gạo).

Cách chuyển dịch này đảm bảo khá tốt về mặt ngữ nghĩa, hầu như là

chuyển tải được nội dung tên món ăn với đầy đủ các yếu tố xuất hiện trong

tên món ăn.

Ví dụ: Gà rang gừng: Grilled chicken with ginger (gà rang với gừng)

Như vậy với cách chuyển dịch này đảm bảo được yếu tố ngữ nghĩa ngữ dụng.



91



3.2.3. Không tương đương

Hệ thống từ ngữ ẩm thực tiếng Việt chuyển dịch sang tiếng Anh hiện

nay vẫn trong giai đoạn chuẩn hóa. Hầu hết, các nhà hàng đều thuê dịch theo

cách diễn giải (diễn giải các thành phần cấu thành món ăn hoặc phương thức

nấu chín món ăn), nên chúng ta chưa thể đánh giá một cách xác đáng hệ thống

này được. Với 678 đơn vị từ ngữ ẩm thực tiếng Việt được chuyển dịch sang

tiếng Anh này cũng không là ngoại lệ mặc dù chúng tôi đã cố gắng thu thập

tài liệu ở các nguồn tin cậy như từ điển Lạc Việt, một số trang Web các cửa

hàng ăn người Việt tại Mỹ, Wikipedia…. Nhưng để chuẩn hóa, tạo thành

cuốn từ điển món ăn Việt bằng tiếng Anh cũng cần thêm thời gian, vì ngoài

quảng bá ẩm thực chúng ta còn có nhiệm vụ quảng bá văn hóa Việt Nam ra

thế giới. Những trường hợp được dịch ra nhưng gần như không có sự tương

đương vẫn đang còn, một phần vì tính "dân tộc" chứa đựng trong tên gọi món

đó quá lớn nên việc chuyển tải sang một thứ ngôn ngữ khác lại không có

những nét tương đồng về văn hóa là rất khó.

Ví dụ: Bánh khoái: plain rice flan (một loại bánh gạo thông thường trong khi bánh khoái là loại bánh không đơn giản và cũng không thông

thường như cách chuyển dịch - bánh khoái là một loại bánh làm bằng bột gạo

có nhân từ tôm, thịt, giá đỗ)

Bánh xèo: Vietnamese pancake (một loại bánh Việt Nam);

Chè đậu đãi: green bean compote (compote: có nghĩa là mứt quả).

Cách chuyển dịch này gần như không diễn tả được đặc trưng hay đặc

điểm nào của bánh mà chỉ nêu một cách chung chung.



92



Trong quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới,

việc quảng bá văn hóa trong đó có văn hóa ẩm thực là một trong những cách

làm có hiệu quả. Song hiện nay, chưa có một từ điển ẩm thực tiếng Việt-Anh,

nên tìm một quy chuẩn là điều cần thiết. Hiện nay, việc dịch này chưa được

quan tâm nên phần dưới đây của luận văn sẽ trình bày các phương thức

chuyển dịch của từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh trong các trường

hợp không có tương đương.

3.3. Các thủ pháp chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh

Theo tác giả Nguyễn Hồng Cổn (2006), các thủ pháp dịch từ ngữ là

cách thức xử lý và xác lập tương đương giữa các đơn vị từ vựng của ngữ

nguồn và ngữ đích và các khả năng lựa chọn để xác lập tương đương từ vựng

trong quá trình dịch thuật.

Như trên đã trình bày, mỗi loại hình văn bản khác nhau sẽ có những thủ

pháp chuyển dịch khác nhau, ở đây từ ngữ ẩm thực được chuyển dịch sang

tiếng Anh sẽ được áp dụng các thủ pháp phổ biến là trực dịch, dùng các từ

ngữ có nghĩa hẹp hơn, dùng các từ ngữ có nghĩa rộng hơn, tương đương dụng

học, tương đương văn hóa, tương đương chức năng, tương đương mô tả, sao

phỏng, phiên chuyển.

Như trên đã trình bày, dịch thuật là một lĩnh vực phức tạp. Vì dịch

thuật là hoạt động bị chi phối bởi nhiều yếu tố, yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, tình

huống giao tiếp (ngữ cảnh). Đặc biệt là dịch thuật từ ngôn ngữ nguồn sang

ngôn ngữ đích là 2 ngôn ngữ khác biệt nhau hoàn toàn về loại hình ngôn ngữ

lại càng gặp nhiều khó khăn. Sự khác biệt về vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên,

thói quen sinh hoạt của các cư dân sử dụng 2 ngôn ngữ khác nhau cũng là rào

cản không nhỏ để tiến tới được chuyển tải hoàn toàn ý nghĩa cũng như những

nét văn hóa mang trong từ đó. Để góp phần vào việc nghiên cứu cách chuyển



93



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

×