1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Động lực học phôton

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 128 trang )


điểm lượng tử về bức xạ điện từ thì tần số của bức xạ tán xạ phải nhỏ hơn tần số của

bức xạ chiêu tới và phụ thuộc vào góc tán xạ θ.

Điều đó được A.H.Compton chỉ ra khi cho chùm tia X bước sóng λ chiếu vào

paraphin, glaphit. Kết quả thí nghiệm cho thấy: chùm tia X bị tán xạ và trong phổ tán

xạ đó bên cạnh vạch có bước sóng λ, còn xuất hiện vạch có bước sóng λ’ > λ với λ’

không phụ thuộc vào cấu tạo các chất, mà phụ thuộc vào góc tán xạ θ. Bằng lý thuyết

và được thực nghiệm kiểm chứng A.H. Comptom đã tính được độ biến thiên của bước

sóng θ khi tia X bị tán xạ theo công thức:



trong đó



- bước sóng Compton (đối với electron).

Hiệu ứng Compton được giải thích đầy đủ khi dựa vào thuyết phôton của

A.Einstein:

Quá trình tán xạ của chùm tia X thực chất là quá trình va chạm hoàn toàn đàn hồi

giữa hai hạt phôton và electron. Vạch có bước sóng bằng bước sóng λ của chùm tia X

tới tương ứng với sự va chạm của phôton với các electron nằm sâu trong nguyên tử

liên kết mạnh với hạt nhân, còn vạch có bước sóng λ’ tương ứng với sự va chạm của

phôton với các electron liên kết yếu với hạt nhân (các electron này coi như tự do, vì

năng lượng liên kết của chúng rất yếu so với năng lượng của chùm tia X chiếu tới) .

Bây giờ chúng ta dẫn đến tường minh biểu thức (2- 15). Giả sử trước va chạm,

phôton có động lượng là P và năng lượng toàn phần P.c, còn electron đứng yên có

khối lượng nghỉ me, có động lượng bằng 0 và năng lượng toàn phần mec2. Sau va chạm

phôton bị lệch đi một góc e, bước sóng thay đổi và có giá trị λ’, có động lượng P và

năng lượng toàn phần P’c ; còn electron bị giật lùi có động lượng Pe và năng lượng

toàn phần:



27



Theo định luật bảo toàn động lượng ta có:



Bình phương hai vế của phương trình (2 -16), ta có:



Theo định luật bảo toàn năng lượng, ta có:



Bình phương hai vế của phương trình (2- 18) ta có:



Khử P’e2 ở (2-17) và (2-19), ta được:



suy ra:



trong đó



Đó là điều cần chứng minh.

Như vậy, hiệu ứng Compton chứng tỏ ánh sáng là một chùm hạt - chùm các

phôton.

28



2-4. LƯỠNG TÍNH SÓNG HẠT CỦA VI HẠT TRONG THẾ GIỚI VI MÔ. GIẢ

THUYẾT BROGLIE

1. Tính chất sóng hạt của ánh sáng

Trong vật lý cổ điển, các khái niệm sóng và hạt là các khái niệm tách biệt, loại

trừ nhau: Hạt có quỹ đạo xác định cho nên những chuyển động của hạt không thể có

những đặc trưng cho sóng như nhiễu xạ, giao thoa, ... Ngược lại, sóng không thể có

những hiện tượng đặc trưng như hạt, ví dụ như va chạm,... Song, trong cơ học lượng

tử: Chuyển động của vật thể vi mô (vi hạt) đồng thời được đặc trưng bằng cả tính chất

sóng và tính chất hạt. Tính chất sóng thể hiện rõ nét trong các hiện tượng như giao

thoa, nhiễu xạ, ; còn tính chất hạt thể hiện rõ nét trong các hiện tượng quang điện, hiệu

ứng Compton… Lưỡng tỉnh sóng - hạt đó của ánh sáng đã được A.Einstein nêu lên

trong thuyết lượng tử ánh sáng, trong đó ánh sáng được cấu tạo từ các hạt phôton, mỗi

phôton mang năng lượng: ε = hγ = hϖ (ở đây hγ =

trong lượng bằng: P =



h



λ



= hk (với k =



h

ω

, còn h =

= 1,05.10− 27 j. s và có









).

λ



Để biểu diễn vectơ động lượng P người ta còn đưa ra khái niệm vectơ sóng k và



định nghĩa: k =

n

λ

Với n vectơ đơn vị theo phương truyền sóng.

Như vậy vectơ động lượng P = hk .

Khi đó hàm sóng phẳng đơn sắc của ánh sáng biểu diễn qua năng lượng (W) và

động lượng P của hạt phôton tương ứng với sóng đó, có dạng (biểu diễn phức):



Từ biểu thức W = hγ và P =



h

chúng ta thấy vế trái mô tả các đặc trưng hạt (năng

γ



lượng W, động lượng P ) còn vế phải thể hiện các đặc trưng của sóng (tần số γ, bước

sóng λ) của phôton. Mối liên hệ sóng - hạt đó được biểu thị qua hằng số Planck h.

2. Giả thuyết Broglie

Năm 1924, trên cơ sở lưỡng tính sóng - hạt của ánh sáng Loui de Broglie người

Pháp đã suy rộng tính chất đó trước hết đối với electron và sau đó mở rộng cho mọi vi

hạt nói chung.

L.de Broglie đưa ra giả thuyết: Mỗi vi hạt tự do có năng lượng xác định (W),

động lượng xác định (P) tương ứng với một sóng phẳng đơn sắc có tần số v, bước sóng

λ thỏa mãn hệ thức liên hệ:

29



Có thể nói vi hạt ở mức độ nào đó thi giống sóng và ờ mức độ nào đó thì giống

hạt, mức độ đó phụ thuộc vào điều kiện mà ở đó xét vi hạt (có những thí nghiệm chỉ

phát hiện thấy tính chất “sóng” và có những thí nghiệm chỉ phát hiện thấy tính chất

"hạt" ). Tính chất "sóng" và tính chất "hạt" của vi hạt là hai mặt đối lập, nhưng chúng

kết hợp với nhau một cách biện chứng trong khuôn khổ một đối tượng vi mô thống

nhất: đó là lưỡng tính "sóng - hạt". Ở đây lưỡng tính "sóng - hạt" được hiểu như khả

năng tiềm tàng của thế giới vi mô thể hiện những tính chất khác nhau của mình phụ

thuộc vào điều kiện tương tác, chuyển động (chẳng hạn điều kiện quan sát). Ví dụ, khi

xét tương tác thì tính chất "hạt" thể hiện rõ hơn ; còn khi chuyển động thì tính chất

“sóng” thể hiện rõ hơn.

Sóng theo giả thuyết ở trên được gọi là "sóng Broglie" hay sóng “vật chất”.

3. Thực nghiệm xác nhận tính chất sóng của vi hạt

Giả thuyết Broglie về lưỡng tính "sóng - hạt" của mọi vi hạt đã được nhiều thí

nghiệm xác nhận về sự đúng đắn của nó. Sau đây chúng ta có thể chỉ ra vài thí nghiệm

minh họa điều đó.

a) Thl nghiệm về nhiễu xạ của chính electron qua một khe hẹp (h.2 7): Chiếu một

chùm electron song song hẹp qua một khe hẹp.



Trên màn huỳnh quang E, ta thu được các vân nhiễu xạ của chùm electron tương

tự như vân nhiễu xạ của ánh sáng qua một khe hẹp. Khi cho từng electron riêng biệt đi

qua khe hẹp và kéo dài thời gian thí nghiệm để số electron qua khe đủ lớn thì trên màn

E ta vẫn thu được vân nhiễu xạ. Kết quả các thí nghiệm chứng tỏ rằng không những

một chùm electron có tính chất sóng mà ngay cả từng electron chuyển động cũng có

30



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

×