1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Câu 2: Nội dung cơ bản và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Tại sao nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.16 KB, 17 trang )


Cập nhật 11/02/2015



Nội dung của CN DVBC chủ yếu thể hiện qua quan điểm duy vật về thế giới nói

chung và quan điểm duy vật về xã hội nói riêng.

Quan điểm duy vật về thế giới:

CN DVBC khẳng định rằng: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất

ở tính vật chất.

+ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho

con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và

tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Như vậy, vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc

lập với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh.

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất.

Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung, thông qua vận động

mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, vận động của vật chất là tự thân và nó không

tách rời vật chất. Có 5 hình thức cơ bản của vận động được sắp xếp từ thấp đến cao: vận

động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.

Hình thức vận động cao bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn và các

hình thức của vận động luôn có xu hướng chuyển hóa lẫn nhau. Đứng im chỉ là sự vận

động trong thăng bằng khi sự vật còn là nó mà chưa chuyển thành sự vật khác, đứng im

là tương đối còn vận động mới là tuyệt đối.

Không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất. Mọi sự vật tồn tại

khách quan đều có độ dài ngắn, kết cấu,…những thuộc tính đó gọi là không gian. Mọi

sự vật tồn tại khách quan đều có quá trình diễn biến nhanh, chậm, kế tiếp,..những thuộc

tính đó gọi là thời gian. Không gian thực có 3 chiều còn thời gian có 1 chiều. Không

gian và thời gian đều là thuộc tính của các sự vật hiện tượng, gắn liền với sự vật hiện

tượng. Không gian và thời gian cũng khách quan, vĩnh viễn và không tách rời vật chất

vận động.

“Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận

động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.

Vậy, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, thế giới vật

chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, không sinh ra và không mất đi. Tất cả các sự

vật hiện tượng trên thế giới đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất hay có nguồn

gốc vật chất. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất thống nhất chặt chẽ với

nhau, vận động theo các quy luật khách quan, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, là

nguyên nhân và kết quả của nhau.

+ Ý thức là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Ý thức là một

sản phẩm đặc biệt, là sự phản ánh của thế giới khách quan vào não người trên cơ sở của

lao động và ngôn ngữ, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là thế giới khách

quan được di chuyển vào não người và được cải biến đi trong nó.

Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, sau khi ra đời thì ý thức có tính độc lập

tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động của con

người. Ý thức của con người có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất

khách quan theo nhu cầu của mình. Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế

khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

Quan điểm duy vật về xã hội:



5



Cập nhật 11/02/2015



Xã hội theo quan điểm của CN DVBC là tổng hợp những con người hiện thực

cùng với tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ. Sự phát triển của xã hội loài người

cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định. Nội dung cơ quản quan điểm

duy vật về xã hội thể hiện:

+ Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Chính sự phát triển lâu dài của giới

tự nhiên đã dẫn đến sự ra đời của con người và xã hội loài người. Xã hội là sản phẩm

phát triển cao nhất của giới tự nhiên.

+ Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết định

quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý

thức xã hội. “Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự

tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.

+ Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Một xã hội trọn vẹn

trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể là một hình thái kinh tế - xã hội; gồm những mặt cơ

bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Khi LLSX phát

triển đến một mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới

của LLSX, lúc này cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn đến kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi

theo. Đến đây, tất cả các mặt cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội đã thay đổi

và chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Tính lịch sử của sự phát

triển xã hội thể hiện ở chỗ sự phát triển xã hội là sự thay thế các hình thái kinh tế-xã

hội, từ hình thái này đến hình thái khác cao hơn. Tính tự nhiên của sự phát triển xã hội

thể hiện ở chỗ sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế - xã hội là khách quan,

không phụ thuộc vào ý chí của con người.

+ Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Quần chúng

nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là động lực cơ bản của mọi

cuộc cách mạng xã hội, là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần. Trong mối

quan hệ với quần chúng nhân dân thì lãnh tụ có vai trò quan trọng, quần chúng nhân dân

có vai trò quyết định.

* Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Bản chất của CN DVBC thể hiện qua các luận điểm sau:

+ Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn. Các

nhà DVBC đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết

thỏa đáng vấn đề cơ bản của triết học – mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. CN DVBC

khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất; trong thế giới

vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức song ý thức có thể tác động

trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

+ Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng. Với việc

kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó và tổng kết thành tựu của

các khoa học đương thời, Marx và Engels đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn

chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên

CN DVBC với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng.

+ Quan niệm duy vật triệt để. Bằng việc khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của

đời sống xã hội và coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình

lịch sử - tự nhiên, CN DVBC đã khắc phục được tính không triệt để của CNDV cũ.

“CNDV lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”.

6



Cập nhật 11/02/2015



+ Tính thực tiễn – cách mạng. CN DVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, CN

DVBC ra đời đã được giai cấp vô sản tiếp nhận như một công cụ định hướng cho hành

động, là vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể

nhân loại. CN DVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.

CN DVBC đã phản ánh đúng thế giới, định hướng hoạt động của con người phù hợp với

quy luật, sức mạnh cải tạo thế giới của CN DVBC thể hiện ở mối quan hệ mật thiết với

hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân. CN DVBC khẳng định sự tất thắng của

cái mới, tính cách mạng sâu sắc của CN DVBC thể hiện qua việc nó phản ánh đúng đắn

các quy luật chi phối sự vận động và phát triển; qua đó, quá trình xóa bỏ cái cũ, cái lỗi

thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ hơn là tất yếu.



7



Cập nhật 11/02/2015



CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Câu 3: Phân tích nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ bản của

phép biện chứng duy vật và sự vận dụng nó trong nhận thức và hoạt động

thực tiễn?

Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật được thể hiện qua hai nguyên lý, ba

quy luật và 6 cặp phạm trù. Ba quy luật của phép biện chứng duy vật nói lên động lực

của sự phát triển, hình thức phát triển và xu hướng của sự phát triển của sự vật hiện

tượng.

Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến và lặp đi lặp lại của các

sự vật hiện tượng.

* Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại

(hay quy luật lượng – chất)

Quy luật này chỉ ra tính chất và cách thức của sự phát triển.

+ Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của

sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không

phải là cái khác.

+ Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, là con

số các thuộc tính của sự vật, nói lên quy mô và trình độ của sự vật.

+ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, nó là

khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng không làm cho chất chuyển thành

chất khác.

+ Điểm nút là giới hạn mà tại đó những thay đổi về lượng có thể làm cho chất cũ

mất đi, chất mới ra đời.

+ Bước nhảy là quá trình tất yếu của sự phát triển trong đó những thay đổi về

lượng đã có thể phá vỡ độ, vượt qua điểm nút, làm cho chất cũ mất đi và chất mới ra

đời.

Nội dung quy luật: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự

thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất

của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của

lượng.

VD minh họa: …

Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của

nó. Những nhận thức ban đầu về chất chỉ trở nên đúng đắn và được làm sâu sắc thêm

khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó. Trong hoạt động

thực tiễn phải hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi trong sự phát

triển, kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những

thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.

+ Trong lĩnh vực xã hội, muốn thúc đẩy quá trình phát triển lên một hình thái kinh

tế-xã hội mới cao hơn (biến chuyển về chất) thì phải tác động vào lượng tương ứng –

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tránh tư tưởng nóng vội, đốt cháy giai đoạn.

8



Cập nhật 11/02/2015



* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay quy luật mâu thuẫn)

Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập

tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của các

mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi

của cái cũ và sự ra đời của cái mới. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng vì nó

chỉ ra nguyên nhân và động lực của sự phát triển.

Mâu thuẫn là thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mặt đối lập là những

thuộc tính bên trong của sự vật, tồn tại bên cạnh một thuộc tính đối lập với nó. Sự thống

nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, cái này lấy cái kia làm

điều kiện tồn tại của nhau và sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập, bao hàm trong

nó những mâu thuẫn khách quan và phổ biến.

Mâu thuẫn là một quá trình, khi sự vật hình thành mâu thuẫn xuất hiện, biểu hiện ở

sự khác biệt của các mặt đối lập và mâu thuẫn sẽ gay gắt dần lên đến đỉnh điểm (xung

đột). Mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết và khi mâu thuẫn được giải quyết thì có sự

chuyển hóa làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.

Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hứng bài trừ và phủ

định lẫn nhau giữa các mặt đó. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối

lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa

chúng, phu thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, vào điều kiện trong đó diễn ra

cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.

VD minh họa: …

Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá

trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng

giai đoạn; đánh giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong

từng giai đoạn.

+ Xác định trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện

và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu

thuẫn một cách thực tế. Tùy thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ

thể mà có biện pháp giải quyết thích hợp với từng loại mâu thuẫn.

+ Không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện;

cũng không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, cố gắng tạo điều

kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.

+ Nếu mâu thuẫn là bất lợi, có thể tác động làm hạn chế mâu thuẫn.

* Quy luật phủ định của phủ định

Phủ định biện chứng là khái niệm nói lên sự thay thế cái cũ bằng cái mới. Phủ

định biện chứng là kết quả của việc thực hiện bước nhảy, của việc giải quyết mâu thuẫn.

Nguyên nhân của phủ định biện chứng là nguyên nhân bên trong và có tính khách quan,

tính kế thừa.

Sau các lần phủ định sự vật dường như lặp lại nhưng ở mức độ cao hơn, đó chính

là sự phủ định của phủ định. Sự phủ định của phủ định là kết quả của ít nhất 2 lần biện

chứng trở lên, đối với các sự vật khác nhau thì số bước phủ định là khác nhau. Sự phủ

định của phủ định là kết thúc một chu kỳ phát triển để bắt đầu một chu kỳ mới.

9



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

×