1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Khoa học xã hội >

ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC HÊGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.99 KB, 24 trang )


4



Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã

thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải

rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và

chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong

kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó. Do đó giai cấp tư sản Đức vẫn giữ lập trường

cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước. Chính điều này

đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: nội dung cách mạng dưới một hình

thức duy tâm, bảo thủ, đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là

một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.

Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh điều

kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà còn của cả các nước Châu Âu lúc đó.

1.2.Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hêghen

Georg Wilhelm Friedrich Hêghen, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1770, mất năm

1831. Hêghen sinh ra tại Stuttgart là con trai của Georg Ludwig Hêghen, một nhân viên

hải quan thuộc lãnh địa của công tước Wurttemburg. Là anh cả trong số ba đứa con

(em trai ông, Georg Ludwig, sớm qua đời lúc là một sĩ quan trong quân đội Napoleon

trong chiến dịch Nga), ông được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành ngoan

đạo. Mẹ ông dạy ông tiếng Latinh trước khi ông tới trường, nhưng bà đã mất khi ông

lên 11. Ông rất gắn bó với chị của mình. Hêghen phải bận tâm rất nhiều đến chứng rối

loạn thần kinh của chị ông và phát triển những ý tưởng về tâm thần học dựa trên những

khái niệm biện chứng.

Hêghen đã sớm thông thuộc các học giả kinh điển Hy lạp và La Mã cổ đại khi

đang còn học tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn học và khoa học Đức.

Cha ông cổ vũ ông trở thành một giáo sĩ, và Hêghen đã vào trường dòng tại đại học

Tübingen năm 1788. Ở đó ông đã phát triển tình bạn với nhà thơ Friedrich Holderlin và

nhà triết học Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Đặc biệt là do ảnh hưởng từ

Holderlin, Hêghen đã phát triển một niềm say mê sâu sắc đối với văn học và triết học

Hy Lạp. Từ rất sớm và xuyên suốt cả cuộc đời, Hêghen đã ghi lại và nhớ tất cả những



5



gì ông đọc và số lượng ông đọc thì nhiều vô kể. Ông khâm phục Goethe và luôn tự đặt

mình thấp hơn những thiên tài đương thời ông, Holderlin và Schelling.

Nước Đức thời Hêghen cực kì lạc hậu về kinh tế, là một liên hợp do rất nhiều

quốc gia nhỏ và lạc hậu hợp lại, tương đối cách ly với những biến động sôi nổi của

châu Âu. Hêghen rất say mê đọc Schiller và Rousseau. Năm Hêghen 18 tuổi cũng là

lúc nhà ngục Bastille bị đánh chiếm và nền cộng hòa ra công khai ở Pháp, Hêghen đã

nhiệt tình ủng hộ cho cuộc cách mạng, và là thành viên trong một nhóm ủng hộ được

thành lập ở Tübingen.

Vào khoảng năm 1794, theo đề xuất của bạn ông là Holderlin, Hêghen bắt đầu

nghiên cứu về Immanuel Kant và Johann Fichte, những tác đầu tiên của ông trong thời

kì này lại là “Cuộc đời của chúa Jesus” và “Sự xác thực của đạo Cơ-Đốc”.

Năm 1796, Hêghen viết “Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy tâm chủ

nghĩa Đức” cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn: “… quốc gia là một cái

gì đó hoàn toàn máy móc và không có ý niệm (phi vật chất) về một cái máy móc. Chỉ

cái gì là khách thể của tự do mới có thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng ta cần phải vượt

qua quốc gia! Mọi quốc gia đều đối xử với những người tự do như những cái răng

trong một cái máy. Và đây chính là điều không nên xảy ra; do đó quốc gia phải bị lụi

tàn”. Năm 1797, Holderlin tìm được cho Hêghen một địa điểm ở Frankfurt, hai năm

sau đó cha ông mất.

Năm 1801, Hêghen trở thành giảng viên đại học Jena. Fichte đã rời Jena năm

1799, Schiller thì rời khỏi đó năm 1793, nhưng Schelling còn ở lại cho mãi tận đến

năm 1803 và Hêghen cùng Schelling đã cộng tác với nhau trong suốt quãng thời gian

hai ông còn ở tại Jena. Hêghen đã nghiên cứu, viết lách và giảng bài tại đó, mặc dù ông

đã không được nhận lương cho đến tận cuối năm 1806, ngay trước khi hoàn thành bản

phác thảo đầu tiên cuốn “Hiện tượng học tinh thần”– tác phẩm đầu tiên giới thiệu sự

đóng góp độc nhất vô nhị của ông cho triết học – một phần trong đó lấy từ những nét

về nước Pháp do một người đưa thư cho bạn của ông Niethammer ở Bamburg, Bavaria,



6



đem đến trước khi Jena bị quân đội Napoleon chiếm và Hêghen bị buộc phải chạy trốn

với những trang bản thảo “Hiện tượng học tinh thần” còn lại ở trong túi ông.

Sau khi tiêu hết gia tài của người cha quá cố để lại, Hêghen trở thành biên tập

viên của tờ “Thiên chúa giáo” nhật báo Bamberger Zeitung. Tuy nhiên, ông không

thích nghề báo, và chuyển đến Nuremberg, ở đó ông làm hiệu trưởng một trường trung

học trong 8 năm. Ông tiếp tục làm việc về “Hiện tượng học tinh thần”. Hầu hết mọi thứ

Hêghen phát triển một cách có hệ thống kín khắp thời gian rỗi của mình trong suốt

cuộc đời ông đã được báo trước trong “Hiện tượng học tinh thần”, nhưng cuốn sách

này thiếu tính hệ thống và cực kỳ khó đọc. “Hiện tượng học tinh thần” giới thiệu về

lịch sử nhân loại, với tất cả các cuộc cách mạng, chiến tranh và những khám phá khoa

học, như là một sự tự phát triển duy tâm của một khách thể “tinh thần” hay “linh hồn”.

Trong suốt những năm ở Nuremberg, Hêghen gặp rồi kết hôn với Marie von

Tucher (1791-1855). Họ có với nhau ba đứa con – một bé gái mất ngay sau khi sinh, và

hai con trai, Karl và Immanuel. Khi ở Nuremberg, Hêghen trải qua một thời kỳ vài năm

từ 1812 đến 1816 xuất bản cuốn “Khoa học của Lôgích”. Năm 1816, Hêghen nhận

chức giáo sư triết học tại đại học Heidelberg. Ngay sau đó, ông công bố dưới dạng tóm

lược một báo cáo mang tính hệ thống về toàn bộ triết học của ông nhan đề “Bách khoa

về các khoa học triết học”. “Bách khoa về các khoa học triết học” tiếp tục được duyệt

lại cho đến năm 1827, và bản cuối cùng được xuất bản năm 1830. Nó được dịch lần

đầu tiên sang tiếng Anh năm 1959.

Năm 1818, Hêghen được mời đến dạy tại đại học Berlin, và ông đã ở đó luôn.

Ông mất ở Berlin ngày 14/11/1831, vì bệnh dịch tả. Tác phẩm dài và đầy đủ cuối cùng

Hêghen xuất bản là “Những nguyên lý của triết học pháp quyền” vào năm 1821. Các

tác phẩm khác được xuất bản sau khi ông chết gồm: “Triết học về nghệ thuật thanh

khiết”, “Các bài giảng về lịch sử triết học” (1833- 1836), “Các bài giảng về lịch sử tôn

giáo” (1832), và “Các bài giảng về triết học lịch sử” (1837).

Tiểu kết:



7



Tuy là một nhà triết học vĩ đại với phép biện chứng lỗi lạc, Hêghen cũng khó

thoát khỏi những ảnh hưởng của thời đại, đặc biệt là điều kiện kinh tế xã hội nước Đức

và những cuộc cách mạng tư sản của Tây Âu thời bấy giờ. Do đó triết học của Hêghen

mang tính duy tâm, đề cao vai trò của tư duy con người. Đồng thời do việc sinh trưởng

trong một gia đình Tinh Lành ngoan đạo nên tư tưởng triết học của ông cũng mang

màu sắc tôn giáo đề cao vai trò của đấng sáng tạo tối cao sản sinh ra toàn bộ giới tự

nhiên và con người.



Chương 2

NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN

2.1.Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen

Theo Hêghen, cơ sở cho sự tồn tại của thế giới không phải là vật chất mà là “ý

niệm tuyệt đối” hay là “tinh thần tuyệt đối”. Đó là một thực thể tinh thần có trước giới

tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó và tự phân biệt với bản thân. “Ý niệm tuyệt đối”

được hiểu như một đấng sáng tạo tối cao sản sinh ra toàn bộ giới tự nhiên và con

người; tất cả các sự vật, hiện tượng, từ những sự vật tự nhiên cho đến các sản phẩm

hoạt động của con người, đều được coi là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”.

“Ý niệm tuyệt đối” là một thực thể biện chứng, luôn luôn tự thân vận động và

phát triển. Hêghen là người đầu tiên nhìn nhận toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy

là một quá trình phát triển thống nhất, nhưng theo tinh thần duy tâm, coi sự phát triển

của ý niệm là nền tảng cho sự phát triển của tự nhiên và con người.

Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” được diễn đạt theo mô hình Tam đoạn thức

là: chính đề - phản đề - hợp đề (theo quy luật phủ định của phủ định), trong đó các yếu



8



tố có mối liên hệ hữu cơ và chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”

được coi là hiện thân của quá trình phát triển lịch sử của nhân loại (chủ yếu là phát

triển của đời sống tinh thần mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng), tuy được Hêghen phân

ra thành tám phần khác nhau nhưng theo Mác nó chỉ bao gồm qua ba giai đoạn chính

là: “tinh thần thuần túy” (tư duy), “tinh thần khách quan” (tự nhiên và xã hội), “tinh

thần tuyệt đối” (hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người).

“Tinh thần thuần túy” là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát triển trong

mình. Theo Hêghen, trong sự vận động biện chứng “ý niệm tuyệt đối” đã đạt tới sự

phát triển đầy đủ từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó mang trong mình đầy đủ

những tính quy định sau này, giống như cái mầm cây mang sẵn trong mình toàn bộ bản

chất của cái cây như mùi, vị, hình dáng quả…Sự phát triển của tinh thần thần túy là phi

không gian và phi thời gian.

Sự phát triển của tinh thần thuần túy, khi đạt đến đầy đủ thì “tha hóa” ra thành

giới tự nhiên - tức “tinh thần khách quan”. Như vậy giới tự nhiên chỉ là một giai đoạn

trong quá trình phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, là sự “tha hóa” của ý niệm, là “hình

thức tồn tại khác” của ý niệm. Hêghen giải thích: sở dĩ “ý niệm tuyệt đối” tha hóa

thành giới tự nhiên vì nó là một thực thể tinh thần, bản tính của nó là ham hiểu biết, để

hiểu biết về mình thì nó phải tha hóa ra thành một cái khác mình nhưng vẫn là chính

mình.

Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm

tuyệt đối”. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo thế giới của con người

để “ý niệm tuyệt đối” tự nhận thức chính mình. Như vậy quá trình nhận thức của con

người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của “ý niệm tuyệt đối”. Theo

Hêghen, “nhận thức khái niệm” là dạng nhận thức cao nhất của con người. Khái niệm

được coi là bản chất tinh thần, là linh hồn của các sự vật: “Nếu như gọi tri thức là khái

niệm, còn bản chất hay chân lý - là tồn tại, tức sự vật, thì vấn đề là xác định liệu khái

niệm có phù hợp với sự vật hay không. Nếu chúng ta gọi bản chất (hay tồn tại - tự nó)

của sự vật là khái niệm và sự vật là khái niệm như một sự vật thì vấn đề là xác định



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

×