Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.99 KB, 24 trang )
8
tố có mối liên hệ hữu cơ và chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”
được coi là hiện thân của quá trình phát triển lịch sử của nhân loại (chủ yếu là phát
triển của đời sống tinh thần mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng), tuy được Hêghen phân
ra thành tám phần khác nhau nhưng theo Mác nó chỉ bao gồm qua ba giai đoạn chính
là: “tinh thần thuần túy” (tư duy), “tinh thần khách quan” (tự nhiên và xã hội), “tinh
thần tuyệt đối” (hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người).
“Tinh thần thuần túy” là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát triển trong
mình. Theo Hêghen, trong sự vận động biện chứng “ý niệm tuyệt đối” đã đạt tới sự
phát triển đầy đủ từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó mang trong mình đầy đủ
những tính quy định sau này, giống như cái mầm cây mang sẵn trong mình toàn bộ bản
chất của cái cây như mùi, vị, hình dáng quả…Sự phát triển của tinh thần thần túy là phi
không gian và phi thời gian.
Sự phát triển của tinh thần thuần túy, khi đạt đến đầy đủ thì “tha hóa” ra thành
giới tự nhiên - tức “tinh thần khách quan”. Như vậy giới tự nhiên chỉ là một giai đoạn
trong quá trình phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, là sự “tha hóa” của ý niệm, là “hình
thức tồn tại khác” của ý niệm. Hêghen giải thích: sở dĩ “ý niệm tuyệt đối” tha hóa
thành giới tự nhiên vì nó là một thực thể tinh thần, bản tính của nó là ham hiểu biết, để
hiểu biết về mình thì nó phải tha hóa ra thành một cái khác mình nhưng vẫn là chính
mình.
Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm
tuyệt đối”. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo thế giới của con người
để “ý niệm tuyệt đối” tự nhận thức chính mình. Như vậy quá trình nhận thức của con
người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của “ý niệm tuyệt đối”. Theo
Hêghen, “nhận thức khái niệm” là dạng nhận thức cao nhất của con người. Khái niệm
được coi là bản chất tinh thần, là linh hồn của các sự vật: “Nếu như gọi tri thức là khái
niệm, còn bản chất hay chân lý - là tồn tại, tức sự vật, thì vấn đề là xác định liệu khái
niệm có phù hợp với sự vật hay không. Nếu chúng ta gọi bản chất (hay tồn tại - tự nó)
của sự vật là khái niệm và sự vật là khái niệm như một sự vật thì vấn đề là xác định
9
liệu sự vật có phù hợp với khái niệm của mình không. Hiển nhiên là hai cách hiểu trên
đây là như nhau. Khi nào con người nhận thức đầy đủ giới tự nhiên thì khi đó “ý niệm
tuyệt đối” sẽ quay trở về với chính nó, đó chính là “tinh thần tuyệt đối”. Như vậy, điểm
khởi đầu của sự phát triển là tinh thần, nhưng đó là “Tinh thần thế giới” (phi cá nhân)
và điểm kết thúc của sự phát triển cũng là tinh thần, nhưng đó là “tinh thần tuyệt đối”
tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Nó biểu hiện dưới các hình thức nhận thức tôn giáo,
nghệ thuật và triết học của con người, trong đó triết học là hình thức cao nhất. Như vậy
hệ thống triết học của Hêghen là duy tâm khách quan và siêu hình. Duy tâm khách
quan ở chỗ nó thừa nhận tinh thần là có trước và quyết định giới tự nhiên; siêu hình ở
chỗ nó thừa nhận sự kết thúc của quá trình phát triển, cho rằng khi con người nhận thức
hết về giới tự nhiên thì nó không vận động, phát triển về thời gian mà chỉ vận động
trong không gian. Tương ứng với ba giai đoạn phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, hệ
thống triết học của Hêghen được phân ra thành ba học thuyết: Khoa học lôgíc - triết
học tự nhiên - triết học tinh thần.
2.2.Phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Hêghen phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình thái
ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ
sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái
ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển
lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hêghen.
Khi trình bày về “ ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển, Hêghen cho rằng đó
là sự vận động nội tại của “ ý niệm tuyệt đối”. Tự vận động tức là thay đổi hình thức
phát triển khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Lênin cũng đã tìm thấy hạt nhân hợp lý
trong phương pháp biện chứng của Hêghen là sự tự vận động. Nội dung hợp lý và sâu
sắc này trong quan điểm của Hêghen theo Lênin là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc
nội tại của những sự khác nhau. Khi trình bày sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”
Hêghen thừa nhận tồn tại, bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức biểu hiện
chủ yếu trong quá trình phát triển. Điều này phù hợp với quá trình suy nghĩ, nhận thức
của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất, khi
10
nắm được bản chất ta rút ra khái niệm. Phương pháp tư duy này vẫn còn được sử dụng
cho đến ngày nay ở tất cả các bộ môn khoa học khác nhau
Hêghen không phải là người đầu tiên xây dựng nên phép biện chứng song qua tư
tưởng và quá trình hoạt động của mình, Hêghen đã khiến nó trở nên hoàn thiện hơn và
mang lại cho phép biện chứng một vị trí quan trọng trong triết học. Ông quan niệm,
phép biện chứng: “ nói chung là nguyên tắc của mọi sự vận động, mọi sự sống và mọi
hoạt động trong phạm vi hiện thực. Ông coi biện chứng cũng là linh hồn của mọi nhận
thức khoa học chân chính”. Với tư tưởng như vậy, ông đã xem xét mọi sự vật hiện
tượng, ý thức dưới cái nhìn biện chứng. Và về cốt lõi, phương pháp biện chứng của
ông cũng bao gồm 02 nội dung cơ bản:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng
buộc nhau (cái toàn thể và cái bộ phậ hay là cái chung và cái riêng…).
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà
nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
nội tại của chúng.
Như vậy phương pháp biện chứng của Hêghen cũng đã thể hiện tư duy mềm dẻo,
linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái "hoặc là...
hoặc là... " còn có cả cái "vừa là… vừa là... " nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc
vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại
trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng của Hêghen là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết
quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là
bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể.
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học của
ông đầy mâu thuẫn giống như sự mâu thuẫn của cả xã hội Đức nói chung, của nền triết
học Đức lúc bấy giờ nói riêng. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp
11
lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông
phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát
triển của tự nhiên và xã hội.
Hêghen là người đầu tiên xây dựng nên một phép biện chứng tự giác, có hệ thống
và tương đối toàn diện mà cốt lõi của nó là học thuyết về sự phát triển. Các tư tưởng
biện chứng được Hêghen trình bày trong cả ba phần: Khoa học lôgíc - triết học tự nhiên
- triết học tinh thần, nhưng tập trung nhất là trong “Khoa học lôgích”.
2.2.1.Khoa học lôgích
Hêghen cho rằng phải xây dựng một lôgích học mới. Tuy vẫn xác định lôgích học
là khoa học về tư duy, nhưng cần phải hiểu một cách biện chứng về tư duy. Tư duy ở
đây không phải là ý thức cá nhân, mà là “tinh thần thuần túy” (dưới khía cạnh tôn giáo
thì đó là Chúa). Như vậy, Hêghen phân biệt hai loại tư duy là: thứ nhất, tư duy tự nó tức “ý niệm tuyệt đối”, là nền tảng và bản chất của mọi tồn tại; và tư duy cho nó - tức
tư duy cá nhân con người. Tư duy con người là giai đoạn cao nhất, trong đó “ý niệm
tuyệt đối” có thể tự ý thức về mình, nên tư duy con người phải hoạt động theo những
quy luật khách quan chung của tư duy.
Giới tự nhiên cũng chỉ là hình thức biểu hiện khác của tư duy, là tư duy khách
quan vô thức. Chúng đồng nhất về nội dung, chỉ khác nhau về hình thức. Như vậy, đối
tượng của lôgích học là tư duy lôgích, nó là sự thống nhất giữa tư tưởng và hiện thực,
giữa tinh thần và vật chất, giữa chủ quan và khách quan. Cho nên, “lôgích học vì vậy
đồng nhất với siêu hình học – khoa học về các sự vật được thể hiện trong tư tưởng”.
Hêghen coi tư duy là một quá trình phát triển biện chứng, bao gồm ba yếu tố cơ
bản là: giác tính, biện chứng và tư biện.
+Giác tính: là yếu tố phù hợp với tư duy thông thường của mọi người. Tư duy này
còn mang nặng tính trực quan, nên xem xét sự vật trong trạng thái cứng đờ, tách rời các
mặt đối lập với nhau, không thấy được sự thống nhất giữa chúng.
Trình độ này của tư duy tương ứng với giai đoạn trước E.Cantơ.
12
+Yếu tố biện chứng: Hêghen hiểu phép biện chứng không phải là nghệ thuật
tranh luận, mà là học thuyết về sự phát triển của các khái niệm với tính cách là bản chất
tinh thần của mọi sự vật. Cho nên mọi sự vật, vật chất và tinh thần đều phát triển theo
các quy luật biện chứng. Đó là quá trình thống nhất giữa chất và lượng; là quá trình nảy
sinh và giải quyết mâu thuẫn và là sự phủ định của phủ định. Như vậy, theo tinh thần
phép biện chứng không có gì là đứng vững nổi, không có gì là cố định, vĩnh viễn…
Yếu tố này tương ứng với giai đoạn E.Cantơ.
+Yếu tố tư biện: là sự thống nhất của hai yếu tố trên, đồng thời là kết quả phát
triển của chúng. Chỉ ở đây phép biện chứng mới đạt đến trạng thái chín muồi, khi mà
bản chất đích thực của mọi cái đều được biểu hiện ra là sự thống nhất và sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Yếu tố này tương ứng với triết học của Hêghen.
Theo Hêghen, sự phân chia các yếu tố như trên chỉ mang tính chất tương đối về
không gian và thời gian. Trong thực tế chúng liên hệ mật thiết với nhau trong từng giai
đoạn phát triển của sự vật và khái niệm. Mỗi khái niệm, phạm trù lôgích học và toàn bộ
triết học nói chung đều chứa đựng đầy đủ cả ba yếu tố trên. Mỗi phạm trù lôgích học
thể hiện một khía cạnh hay một giai đoạn nào đó trong quá trình phát triển của tư duy.
Quá trình nhận thức phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cảm tính đến lý tính,
cuối cùng mới đi đến khái niệm. Tương ứng với quá trình này Hêghen chia khoa học
lôgích ra thành ba học thuyết: học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất, học thuyết
về khái niệm. Để xây dựng khoa học lôgích cần xác định điểm khởi đầu của nó.
Hêghen đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu của khoa học lôgích,
đồng thời cũng là điểm khởi đầu của nhận thức lý luận nói chung như sau:
+ Một là, tính khách quan là nguyên lý hàng đầu, đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải
xuất phát từ bản thân sự vật khách quan, phù hợp với từng sự vật chứ không được tuỳ
tiện, chủ quan.
+Hai là, nguyên lý đơn giản và trừu tượng. Điểm khởi đầu phải là cái đơn giản
nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất. Như vậy Hêghen là người đầu tiên đề xuất
nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể.
13
+Ba là, nó phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó là mâu
thuẫn giữa tinh thần và vật chất. Mâu thuẫn được coi là nguồn gốc của sự phát triển, có
mặt ở mọi sự vật, vật chất và tinh thần. Hêghen đã chỉ ra cơ chế phát triển của mâu
thuẫn thông qua phạm trù bản chất. Phạm trù bản chất được hiểu như sau:
•
•
•
•
•
•
Giai đoạn 1. Đồng nhất, nhưng đồng thời cũng là sự khác nhau
Giai đoạn 2. Khác nhau bề ngoài
Giai đoạn 3. Khác nhau cơ bản
Giai đoạn 4. Sự đối lập
Giai đoạn 5. Mâu thuẫn
Giai đoạn 6. Cơ sở hay sự đồng nhất, nhưng ở trình độ cao hơn với tính cách
là sự phủ định của phủ định.
+ Bốn là, sự thống nhất giữa lịch sử và lôgích. Hêghen hiểu lôgích không phải là
sự khái quát lịch sử, mà ngược lại lịch sử chính là hiện thân của lôgích. Cho nên lôgích
là có trước và quyết định đối với lịch sử (duy tâm).
Tóm lại, biện chứng của khái niệm nói riêng, của toàn bộ hiện thực vật chất và
tinh thần nói chung được hiểu là:
+Thứ nhất: các khái niệm không chỉ khác nhau, mà còn làm trung giới cho nhau,
có liên hệ mật thiết với nhau.
+Thứ hai: mỗi khái niệm đều nằm trong quá trình phát triển, được thực hiện theo
ba quy luật phổ biến là lượng-chất, mâu thuẫn và phủ định của phủ định.
Như vậy, trong khuôn khổ phép biện chứng duy tâm của mình, Hêghen không chỉ
trình bày các phạm trù: như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các
quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định” và “quy
luật mâu thuẫn”. Các cặp phạm trù này được Hêghen đặc biệt nhắc đến ở nội dung
Lôgích học của ông. Trong Lôgích học ở phần tồn tại, Hêghen đã diễn đạt các phạm trù
vật chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hoá từ lượng đến chất và
ngược lại. Tư tưởng của Hêghen về sự biến đổi của khái niệm chất thành khái niệm
lượng và ngược lại, về độ như là sự thống nhất giữa chất với lượng, đã bao hàm sự dự
đoán hợp lý về phát triển. Công lao của Hêghen trong vấn đề này là ở chỗ ông đã dựa
14
vào hóa học mà bác bỏ quan niệm siêu hình về sự vận động liên tục và nêu lên khái
niệm đường dây nút của độ- nghĩa là nêu lên khái niệm về sự phát triển, trong đó sự
tiệm tiến bị gián đoạn bởi những bước nhảy vọt. Chính trong luận điểm ấy Lênin đã
nhìn thấy sự dự đoán của Hêghen về sự phát triển theo bước nhảy vọt ở phần bản chất,
hiện tượng, quy luật, khả năng và thực hiện, nguyên nhân và kết quả, và phần trình bày
học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát triển. Trong phương pháp biện chứng của
Hêghen đã bộc lộ sự dự đoán hợp lý về sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực, về
ngẫu nhiên là hình thức thể hiện của tất yếu. Quan niệm biện chứng của Hêghen về
nguyên nhân và kết quả cũng rất đáng chú ý. Hêghen cho rằng kết quả nói chung chỉ
mang trong nó cái mà cũng có cả ở trong nguyên nhân và cùng một sự vật, trong những
trường hợp này thì nguyên nhân, trong trường hợp khác là kết quả. Đây là quan niệm
hợp lý của Hêghen về quan hệ nhân quả. Ở phần khái niệm của học thuyết Lôgích,
Hêghen đã diễn đạt phạm trù về cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích
và tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại các quan niệm phát triển với tư cách
là phủ định của phủ định. Đồng thời trong khoa học lôgích phương pháp biện chứng
của Hêghen còn được thể hiện ở chỗ: ông đặt ra vấn đề sự thống nhất quá trình lôgích
với quá trình lịch sử; lôgích học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch
sử. Ông nêu lên tính hạn chế của lôgích hình thức và đòi hỏi một lôgích có nội dung
thực tế, sinh động. Ông nêu lên những tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng,
lôgích học và lý luận nhận thức.
2.2.2.Triết học tự nhiên
Triết học tự nhiên là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên. Giới tự nhiên được
Hêghen hiểu là một hình thức tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối”, nó nằm trong quá
trình phát triển thống nhất của “ý niệm tuyệt đối” cho nên không ngừng vận động và
phát triển. Tiếp thu những thành tựu khoa học tự nhiên ông khẳng định sự tồn tại nhiều
cấp độ khác nhau của vật chất như cơ học, vật lý, hóa học, sự sống… với những đặc
điểm khác nhau về bản chất và vận động. Ông cũng đã nêu được nhiều tư tưởng biện
chứng sâu sắc về triết học tự nhiên: thấy được sự thống nhất giữa vật chất với vận
15
động; dự đoán không gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó thể
hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác
biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những thay đổi về lượng, về tính biện chứng của
quá trình hóa học; về mối liên hệ hữu cơ giữa hóa học và vật lý, quá trình hóa học là
khâu cuối cùng chuẩn bị cho đời sống hữu cơ.
2.2.3.Triết học tinh thần (quan điểm về xã hội của Hêghen)
Tuy coi lịch sử nhân loại là lịch sử phát triển của đời sống tinh thần, là hiện thân
của “ý niệm tuyệt đối” theo tinh thần duy tâm, nhưng Hêghen đã nêu được những tư
tưởng biện chứng sâu sắc về sự phát triển xã hội. Hêghen giải thích nguồn gốc nhà
nước không phải từ khế ước xã hội, mà từ mâu thuẫn xã hội. Ông không cho rằng con
người sinh ra vốn đã bình đẳng, mà ngược lại là bất bình đẳng. Do đó trong xã hội luôn
có sự khác biệt về đẳng cấp, của cải… vì vậy cần có nhà nước để điều hoà mâu thuẫn.
Ông cho rằng nhà nước tồn tại vĩnh viễn, ở mọi thời kỳ lịch sử. Nó là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối, nhờ nó mà gia đình và xã hội công dân mới tồn tại được. Xét về bản
chất, nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn bao gồm tổng thể các quy chế,
kỷ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa… Ông
coi nhà nước Quân chủ Phổ là đỉnh cao của sự phát triển xã hội, là “Nhà nước quân chủ
chân chính”, trong đó tất cả mọi người đều được tự do. Ông đề cao vai trò của chiến
tranh, cho rằng nó tồn tại vĩnh viễn mà nhờ nó các dân tộc mới “Tránh khỏi sự thối
nát”. Ông theo chủ nghĩa Sôvanh, đề cao dân tộc Đức.
Hêghen coi lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan. Một
mặt, lịch sử là quá trình tất yếu, vận động theo quy luật khách quan, theo xu thế thời
đại. Nhưng mặt khác, lịch sử phải do các cá nhân, các dân tộc thực hiện. Tuy nhiên,
hoạt động của con người phải tuân thủ tính tất yếu, phải phù hợp với xu thế của thời
đại; vĩ nhân phải suy nghĩ và hành động theo những gì là hợp thời.
Ông coi phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại này so
với thời đại khác, tuy nhiên lại hiểu tự do một cách duy tâm. Ông coi “Tự do là hiểu và
16
làm theo ý Chúa”; “Lịch sử toàn thế giới là lịch sử tiến bộ trong ý thức tự do”; “ Tự do
là cái tất yếu đã được nhận thức”.
Tiểu kết:
Triết học Hêghen đã thể hiện cái hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng, mà sau
này nó là nền tảng cho phép biện chứng duy vật Mác-Lênin, tuy nhiên cái hạt nhân hợp
lý ấy lại đặt trên nền của thế giới quan duy tâm khách quan đầy mâu thuẫn và sai lệch,
làm nó mất đi cái vĩ đại vốn có của nó.
Chương 3
ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP
CỦA NÓ TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
3.1.Ưu điểm của triết học Hêghen
Có thể khẳng triết học Hêghen là đỉnh cao của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
đúng như ông đã từng thừa nhận. Và cốt lõi để tạo nên sự tiến bộ ấy chính là phép biện
chứng của ông. Mặc dù phương pháp tư duy siêu hình trong thời kỳ phục hưng là một
tiến bộ lớn để chống lại những tư tưởng của thần quyền. Tuy nhiên, đến thời kỳ cận
đại, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản và của khoa học tự nhiên, triết học
Tây Âu đã quá coi trọng tư duy siêu hình, đề cao phương pháp thực nghiệm. Điều này
khiến cho triết học Tây Âu cận đại sa vào bế tắc khi giải quyết một số vấn đề mang
tính chất thời đại lúc bấy giờ. Điển hình như quan điểm siêu hình không thể lý giải nổi
những biến động đang diễn ra trong nền kinh tế, không thấy được nguyên nhân và xu
thế của các các cuộc các mạng tư sản Tây Âu...
Hêghen với phương pháp biện chứng của mình mà chủ yếu là tư tưởng về sự vận
động và phát triển đã lý giải nguyên nhân đồng thời đưa ra những xu hướng phát triển
cho giới tự nhiên và xã hội. Ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên,
lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi, phát triển và cố gắng
vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy. Ví dụ: bản thân ông
cũng đã từng ví triết học của mình là đỉnh cao bởi ông cho rằng các triết học trước bản
thân chúng cũng có sự mâu thuẫn và luôn có sự đấu tranh thay thế để đạt đến đỉnh cao.
17
Và đỉnh cao đó chính là Triết học Hêghen. Mặc dù sự tự phong này là mâu thuẫn với tư
duy về sự vận động phát triển của mình song qua cách lý giải đó có thể thấy được cách
thức giải quyết các vấn đề hóc búa của triết học thời kỳ đó của Hêghen là hợp lý.
3.2.Nhược điểm của triết học Hêghen
Như chúng ta đã đề cập ở trên, triết học của Hêghen đã đạt đến mức đỉnh cao tại
thời đại của ông. Và ý nghĩa, vai trò của triết học Hêghen mà cái hạt nhân của nó là
phép biện chứng đã thể hiện không chỉ trong triết học mà trong mọi ngành khoa học
khác, trong thực tiễn đời sống xã hội. Thế nhưng, do những mặt hạn chế bởi nguyên
nhân chủ quan và khách quan nhất định, triết học của Hêghen nói chung và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen nói riêng đã không thể đạt đến chân lý của sự nhận thức.
Những hạn chế trong triết học cả Hêghen xuất phát từ thế giới quan duy tâm, bởi
tư tưởng của bản thân và ảnh hưởng của xã hội đương thời.
+Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm:
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa
tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện
của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hêghen gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý
niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử
- tự nhận thức về bản thân nó. Hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết
học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính chất cách mạng
của triết học này. Và đó là lý do để Mác nhận xét phép biện chứng của Hêghen là “bị
lộn ngược đầu xuống đất”. Tất cả cái tài tình, cái hợp lý của phép biện chứng của ông
là bị sử dụng để tô điểm, bao phủ cho một thế giới quan đầy mâu thuẫn và lầm lạc.
Phép biện chứng duy tâm của ông như một tấm áo giáp hoàn hảo nhưng lại khoác lên
mình một chiến binh ốm yếu và đầy hoang mang. Chính vì thế, khi Mác phát hiện ra
phép biện chứng, khi sử dụng nó trở thành phương pháp luận cho thế giới quan duy
vật, ông đã có thể đập tan mọi luận điệu sai lầm và phản động của Hêghen, mang lại
thắng lợi lớn lao cho chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính thế giới quan duy tâm đã