Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.99 KB, 24 trang )
17
Và đỉnh cao đó chính là Triết học Hêghen. Mặc dù sự tự phong này là mâu thuẫn với tư
duy về sự vận động phát triển của mình song qua cách lý giải đó có thể thấy được cách
thức giải quyết các vấn đề hóc búa của triết học thời kỳ đó của Hêghen là hợp lý.
3.2.Nhược điểm của triết học Hêghen
Như chúng ta đã đề cập ở trên, triết học của Hêghen đã đạt đến mức đỉnh cao tại
thời đại của ông. Và ý nghĩa, vai trò của triết học Hêghen mà cái hạt nhân của nó là
phép biện chứng đã thể hiện không chỉ trong triết học mà trong mọi ngành khoa học
khác, trong thực tiễn đời sống xã hội. Thế nhưng, do những mặt hạn chế bởi nguyên
nhân chủ quan và khách quan nhất định, triết học của Hêghen nói chung và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen nói riêng đã không thể đạt đến chân lý của sự nhận thức.
Những hạn chế trong triết học cả Hêghen xuất phát từ thế giới quan duy tâm, bởi
tư tưởng của bản thân và ảnh hưởng của xã hội đương thời.
+Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm:
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa
tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện
của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hêghen gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý
niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử
- tự nhận thức về bản thân nó. Hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết
học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính chất cách mạng
của triết học này. Và đó là lý do để Mác nhận xét phép biện chứng của Hêghen là “bị
lộn ngược đầu xuống đất”. Tất cả cái tài tình, cái hợp lý của phép biện chứng của ông
là bị sử dụng để tô điểm, bao phủ cho một thế giới quan đầy mâu thuẫn và lầm lạc.
Phép biện chứng duy tâm của ông như một tấm áo giáp hoàn hảo nhưng lại khoác lên
mình một chiến binh ốm yếu và đầy hoang mang. Chính vì thế, khi Mác phát hiện ra
phép biện chứng, khi sử dụng nó trở thành phương pháp luận cho thế giới quan duy
vật, ông đã có thể đập tan mọi luận điệu sai lầm và phản động của Hêghen, mang lại
thắng lợi lớn lao cho chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính thế giới quan duy tâm đã
18
làm cho triết học cả Hêghen yếu ớt và đầy mâu thuẫn. Và đó lại chính là nguồn gốc
khiến cho nó gặp phải những hạn chế vốn có của triết học duy tâm cũng như một số
những hạn chế riêng có.
+Hệ thống triết học đóng:
Hêghen đã tuyên bố triết học của mình là đỉnh cao của nền triết học và không thể
phát triển hơn học thuyết của mình. Và điều đó làm cho phép biện chứng của ông trở
thành một hệ thống triết học đóng. Điều này có lẽ do hai nguyên nhân. Về mặt chủ
quan, có lẽ cái nhận định về Hêghen là ông quá tài giỏi so với người cùng thời là một
trong những lý do để ông cho triết học của mình là đỉnh cao. Song cái chính phải xuất
phát từ chính thế giới quan của ông khi thừa nhận “ý niệm tuyệt đối” là có trước và
quyết định thế giới tự nhiên và xã hội. Do đó, sự vận động của thế giới tự nhiên và xã
hội chẳng qua là quá trình phát triển của nhận thức con người, đi từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh và cuối cùng cái nhận thức ấy phản ánh chính xác “ý
niệm tuyệt đối”. Khi đã đạt được điều đó, nó không thể tiến lên được nữa. Khẳng định
của ông mâu thuẫn với chính cái biện chứng của ông. Nó làm cho phép biện chứng của
ông giảm đi sức sống và sự vĩ đại vốn có.
+ Mâu thuẫn khi tìm cách lý giải các vấn đề xã hội:
Nếu thế giới quan duy tâm là nguyên nhân dẫn đến một hệ thống triết học đóng
thì chính cái tư tưởng đó cũng là nguồn gốc đưa đến rất nhiều quan điểm mâu thuẫn
khác trong phép biện chứng duy tâm, trong việc giải thích các vấn đề trong xã hội.
Quan điểm chính trị phản động của Hêghen, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời
của ông, phản ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả
hiệp của nó với các thế lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh
vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội.
Như vậy ông đã nhận thức sai lầm về khái niệm nhà nước, thừa nhận cái tuyệt đối của
nó. Do đó, ông cũng như các nhà triết học trước đó, chỉ tìm cách giải thích mà không
thể tìm ra được con đường đúng đắn để cải tạo xã hội hiện thực. Điều đó một lần nữa
19
phản ánh cái hệ thống triết học đóng, cái duy tâm và cái không biện chứng của nhà triết
học biện chứng duy tâm Hêghen.
3.3.Những đóng góp của triết học Hêghen trong nền triết học Mác-Lênin
Triết học Mác-Lênin với phương pháp biện chứng duy vật là đỉnh cao triết học
của thời đại ngày nay. Và chính những người sáng tạo nên hệ thống triêt học đó đã thừa
nhận sự kế thừa và phát triển cái hạt nhân hợp lý trong triết học của Hêghen. Cái hạt
nhân ấy chính là phép biện chứng, là hệ thống các quan điểm của ông. Mác không
những chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của Hêghen mà còn cải tạo phép
biện chứng đó, xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học
với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". Mác viết:
"Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên
không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý
thức những hình thái vận động chung. Phép biện chứng ấy ở Hêghen là phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt
nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”.
Nhiều nhà triết học đã đánh giá: nếu loại bỏ đi cái xuất phát điểm trong thế giới
quan duy tâm của Hêghen, người ta sẽ không thể phân biệt được đâu là triết học Mác
đâu là triết học Hêghen. Mặc dù việc phát triển của triết học Mác không đơn thuần là
“chỉ cần dựng nó lại” nhưng hệ thống triết học rõ ràng và khoa học của Hêghen cũng
chính là cái hệ thống cơ bản để triết học Mác hoàn thiện nên phương pháp biện chứng
duy vật với dưới một hệ thống của gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại, quy luật phủ định của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những
quy luật không cơ bản (cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và
kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực).
20
Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu đã được
Mác đặt ra đó. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một cách đơn giản
phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó, trước hết là chủ nghĩa
duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành một công việc hết sức
phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm
của Hêghen; chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng đối với chủ nghĩa duy vật máy
móc và siêu hình.
Trong triết học Mác, phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là các bộ
phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyến hoá lẫn nhau xâm nhập vào
nhau và tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết học
Mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy vật. Đồng thời
phép biện chứng Mácxít không chỉ là phương pháp mà còn là lý luận, hơn thế nữa là lý
luận hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, toàn diện nhất và không phiến diện nhất về sự phát
triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không bao giờ
coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối đời các ông vẫn
không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và những khái
quát mới về phép biện chứng Hêghen. Điều mà tiếc thay các ông chưa kịp thực hiện.
Noi theo tấm gương của Mác và Ph. Ăngghen. V. I . Lênin cũng kiên trì nhấn
mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép
biện chứng Hêghen. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu" - tác
phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông kêu gọi thành
lập "Hội những người bạn duy vật của phép biện chứng Hêghen" để tiến hành công tác
nghiên cứu giải thích và tuyên truyền phép biện chứng của Hêghen: "Dựa vào cách của
Mác đã vận dụng phép biện chứng của Hêghen hiểu theo quan điểm duy vật, chúng ta
có thể và cần phải nghiên cứu phép biện chứng đó trên tất cả các mặt". Những chỉ dẫn
rất quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết luận được chính Lênin rút ra
21
từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêghen và trước hết là về phép biện chứng
Hêghen. Ngay từ giữa những năm 90 thế kỷ XIX, Lênin đã vạch ra một cách sâu sắc ý
nghĩa xã hội của phép biện chứng Hêghen, của mặt cách mạng của nó mà thậm chí
phái Hêghen mới, đã bỏ qua trong bài viết nhan đề "Phriđrích Ăngghen" Lênin viết:
"Lòng tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và
nguyên lý cơ bản của triết học Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá
trình liên tiếp biến hoá và phát triển đã dẫn những học trò của nhà triết học ở Béclanh
không muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống
hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác đang hoành
hành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng. Nếu mọi cái đều
phát triển nếu những thể chế này bị thể chế khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên
chế của vua phổ hay của Nga hoàng việc một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt
đại đa số sự thống trị của giải cấp tư sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?". Như vậy
tiềm năng cách mạng trong phép biện chứng của Hêghen đã được Lênin vạch ra; tiềm
năng đó biểu hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội tại của sự phát triển, sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự phủ định biện chứng với tư cách một bậc thang tất
yếu của sự phát triển.
Như mọi người đền biết trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho dù
phải bận tâm với cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với việc phải phân tích quá trình
diễn tiến và sự chín muồi của cách mạng Nga. Lênin vẫn tìm được thời gian để nghiên
cứu một cách có hệ thống triết học Hêghen đặc biệt là "Khoa học lôgíc" và "Những bài
giảng về lịch sử triết học" của Hêghen. Các bản tóm tắt sâu sắc và cô đọng về những
tác phẩm thiên tài này tạo thành bộ phận đáng kể và hơn nữa là bộ phận quan trọng
nhất trong "Bút ký triết học" nổi tiếng của V.I. Lênin. Trong đó không những ông đã
vạch rõ sự phong phú tuyệt vời của các tác phẩm cơ bản của Hêghen mà còn đưa ra các
kết luận triết học mới góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng.
"Bút ký triết học" của V.I. Lênin chứng tỏ đầy sức thuyết phục rằng công việc chỉnh lý
một cách duy vật đối với phép biện chứng Hêghen còn lâu mới hoàn tất, rằng trong
lĩnh vực này sẽ có những nghiên cứu khám phá và thành tựu mới. Lênin viết: "Hêghen
22
đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng của thế
giới của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm".
Nói cách khác các quy luật phổ biến của sự phát triển của giới tự nhiên của xã hội
loài người và của sự nhận thức không thể được mô hình hoá chỉ phù hợp với các quy
luật của một mình sự nhận thức của tư duy, như hệ thống Hêghen giả định. Không thể
rút ra các quy luật của tồn tại từ tư duy. Từ một thực tế là các quy luật của tồn tại được
phản ánh trong tư duy. Hêghen đã rút ra một kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là
tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hêghen thần bí hoá bị đặt lộn ngược chân lên đầu.
Nhưng dù sao Hêghen cũng đã luận chứng theo kiểu duy tâm, luận điểm cho rằng các
hình thức của tư duy là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có trong tự nhiên và trong xã
hội không phụ thuộc vào tư duy. Quay trở lại vấn đề này ở một chỗ khác. Lênin viết:
"Hêghen đã chứng minh rằng những hình thức lôgích và những quy luật lôgích không
phải là một cái vỏ trống rỗng: mà là phản ánh của thế giới khách quan. Nói đúng hơn
không phải ông đã chứng minh như vậy mà đã đoán thấy một cách tài tình như vậy".
Khi phân tích "Khoa học lôgíc" của Hêghen. Lênin thường xuyên đối chiếu nó
với "Tư bản" của Mác vì phương pháp luận của "Tư bản" là kết quả của một việc làm
đồ sộ là chỉnh lý theo cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm cơ bản này của mình, Mác đã nghiên cứu: thứ nhất sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản; thứ hai sự phát triển của nhận thức về kinh tế tư bản chủ nghĩa (lịch
sử của kinh tế học chính trị) và thứ ba sự phát triển của các phạm trù kinh tế học mà
thông qua đó việc nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi tư bản chủ nghĩa được thực
hiện. Vạch ra sự thống nhất của ba mặt cơ bản này (bản 'thể luận nhận thức luận và
lôgíc học) trong việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lênin đã đi
đến một kết luận vô cùng quan trọng: "Mác không để lại cho chúng ta "lôgích học"
(với chữ L. viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgích của "Tư bản" và cần phải tận
dụng đầy đủ nhất lôgích đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong
"Tư bản". Mác áp dụng lôgích phép biện chứng và lý luận nhận thức . . . của chủ nghĩa
duy vật vào một khoa học duy nhất: mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêghen tất cả
cái gì có giá trị và phát triển thêm lên". Nhờ trí tuệ uyên bác của Mác mà phép biện
23
chứng duy vật đã được tạo ra và với tất cả sự đối lập với phương pháp Hêghen nó vẫn
thừa nhận và nhấn mạnh sự giống nhau của mình với phương pháp đó.
Tiểu kết:
Như vậy mặc dù có những nhược điểm do nền tảng của thế giới quan duy tâm, nhưng
phép biện chứng của Hêghen đã được các nhà triết học vĩ đại C.Mác, Lênin đánh giá
rất cao và họ đã kế thừa nó để phát triển nên phép biện chứng duy vật trong triết học
Mác-Lênin.
Là những người ủng hộ sự phát triển sáng tạo phép biện chứng, chúng ta đánh giá
cao công lao vĩ đại của Hêghen cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục tổng kết khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học và của thực tiễn hiện đại để làm giàu
thêm phép biện chứng duy vật của Mác là nhiệm vụ quan trọng và không bao giờ kết
thúc.
KẾT LUẬN
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình
lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc phục triết
học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền
tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó khẳng định rằng
tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo
thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính
mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con
người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
24
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgích biện chứng, học thuyết
về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá tìm tòi của họ đó là phép
biện chứng. Trong đó, triết học của Hêghen là hệ thống phong phú nhất. Hêghen đã
tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày mọi chủ nghĩa với ý
nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong tư tưởng ở mỗi
giai đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến lên một trình độ
cao hơn. Tuy nhiên, Hêghen lại diễn tả quá trình đó một cách trừu tượng trong phạm vi
tinh thần, và xây dựng chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Quá trình diễn biến tư tưởng trong
tinh thần được coi như là một vận động hoàn toàn độc lập và tự túc, tách rời cơ sở thực
tế khách quan, thậm chí lại phủ định thực tế khách quan. Hệ thống biện chứng theo lối
duy tâm của Hêghen đã được Mác thừa kế và phát triển thành phép biện chứng duy vật
một công cụ không thể thiếu trong lý luận và thực tiễn ngày nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng Văn Quân (2010), Lịch sử Triết học – Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học
Sư phạm, Thái Nguyên.
2. Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Mác, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội.
3. Đoàn Quang Thọ (2007), Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. V.I.Lênin (1983). Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.