Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.14 MB, 495 trang )
Bôi kháng sinh: sau khi rửa sạch vết thương, bôi một lớp mỏng kem hoặc mỡ
kháng sinh như Neosporin hoặc Polysporin để giữ cho bề mặt vết thương ướt. Các
sản phẩm này không làm cho vết thương chóng liền hơn, nhưng chúng có thể
ngăn chặn nhiễm trùng và tạo điều kiện cho quá trình liền vết thương diễn ra hiệu
quả hơn. Một số thành phần có trong thuốc mỡ có thể gây phát ban nhẹ ở một số
người. Nếu phát ban xuất hiện, hãy dừng bôi thuốc.
Che phủ vết thương: băng có thể giúp giữ cho vết thương sạch và ngăn ngừa vi
khuẩn có hại. Sau khi vết thương đã liền đủ để không thể bị nhiễm trùng, việc để
hở sẽ làm cho vết thương liền nhanh hơn.
Thay băng: thay băng ít nhất là hằng ngày hoặc bất kì lúc nào vết thương bị ướt
hoặc bẩn. Nếu bạn bị dị ứng với các chất dính có trong hầu hết các loại băng, hãy
chuyển sang sử dụng loại băng không dính hoặc gạc vô trùng được giữ cố định
bằng băng giấy, băng cuộn hoặc băng chun buộc lỏng. Các loại băng này nói chung
được bán tại các nhà thuốc.
Khâu đối với những vết thương sâu: một vết thương bị đứt sâu qua lớp da hoặc
bị hở miệng hay mép vết thương nham nhở và có mỡ hay cơ lồi ra thường phải
khâu. Một hoặc 2 miếng băng phẫu thuật có thể làm kín miệng vết cắt nhỏ, nhưng
nếu bạn không thể đóng miệng vết thương lớn dễ dàng, hãy đến gặp bác sĩ càng
sớm càng tốt. Đóng kín miệng vết thương kịp thời trong vòng vài giờ sẽ giảm thiểu
nguy cơ nhiễm trùng.
Theo dõi dấu hiệu nhiễm trùng: đi gặp bác sĩ nếu vết thương không liền hoặc bị
đỏ, chảy dịch, nóng hoặc sưng.
Tiêm phòng uốn ván: bác sĩ thường khuyên bạn tiêm phòng uốn ván 10 năm một
lần. Nếu vết thương của bạn sâu hoặc bẩn và lần tiêm cuối cùng của bạn là từ hơn
5 năm trước, bác sĩ có thể đề nghị tiêm nhắc lại. Hãy tiêm nhắc lại trong vòng 48
giờ sau khi bị thương.
31.
BỎNG
Để phân biệt bỏng nhẹ với bỏng nặng, bước đầu tiên là xác định mức độ và phạm
vi tổn thương mô cơ thể. Phân loại bỏng độ 1, độ 2 và độ 3 sẽ giúp bạn xác định
cách sơ cứu:
Bỏng độ 1
Ở những vết bỏng nhẹ nhất này chỉ có lớp da ngoài cùng (biểu bì) bị bỏng. Da có
màu đỏ, đôi khi có sưng và đau. Lớp da ngoài cùng không bị bỏng hết. Điều trị
bỏng độ 1 như bỏng nhẹ trừ khi bỏng xảy ra trên những phần đáng kể của bàn
tay, bàn chân, mặt, bẹn hoặc mông, hoặc ở khớp lớn.
Bỏng độ 2
Khi lớp da ngoài cùng bị bỏng hết và lớp da thứ hai (lớp bì) cũng bị bỏng, tổn
thương được gọi là bỏng độ 2. Bọng nước xuất hiện và da có biểu hiện loang lổ và
đỏ nhiều. Bỏng độ 2 gây đau và sưng nhiều.
Nếu bỏng độ 2 có đường kính không quá 5 - 8cm đường , điều trị như bỏng nhẹ.
Nếu diện tích bỏng lớn hơn hoặc nếu bỏng ở bàn tay, bàn chân, mặt, bẹn hoặc
mông, hoặc ở khớp lớn, cần đến ngay cơ sở y tế.
Với bỏng nhẹ, bao gồm bỏng độ 2 với đường kính không quá 5 - 8cm, hãy thực
hiện những bước sau:
Làm mát vết bỏng: Để vùng bị bỏng dưới vòi nước lạnh trong ít nhất 5 phút
hoặc cho đến khi dịu đau. Nếu không thể làm được điều này, hãy ngâm vết
bỏng vào nước lạnh hoặc chườm lạnh vết bỏng. Làm mát vết bỏng sẽ làm
giảm sưng nhờ dẫn nhiệt ra khỏi da. Không áp đá lên vết bỏng.
Che phủ vết bỏng bằng băng gạc vô trùng: Không dùng bông có sợi có thể
kích ứng da. Băng lỏng để tránh đè ép lên vùng da bị bỏng. Băng ngăn
không khí ở ngoài chỗ da bị bỏng, làm giảm đau và bảo vệ chỗ da phồng
rộp.
Uống thuốc giảm đau: Uống một loại thuốc giảm đau không cần kê đơn như
aspirin, ibuprofen (Advil, Motrin, các thuốc khác), naproxen (aleve) hoặc
acetaminophen (Tylenol, các thuốc khác). Không dùng aspirin cho trẻ em
hoặc trẻ vị thành niên.
Bỏng nhẹ thường liền mà không cần điều trị gì thêm. Vết bỏng khi liền có thể bị
thay đổi sắc tố, nghĩa là có màu khác với màu da xung quanh. Chú ý phát hiện các
dấu hiệu nhiễm trùng, như đau tăng lên, đỏ, sốt, sưng hoặc chảy nước. Nếu
nhiễm trùng diễn ra, cần đi khám ngay. Tránh làm bị thương lại hoặc phơi nắng
nếu vết bỏng liền chưa được một năm, làm như thế có thể gây thay đổi sắc tố
nhiều hơn. Sử dụng kem chống nắng cho vùng bị bỏng trong ít nhất 1 năm.
Thận trọng
Không dùng đá: Đặt đá trực tiếp lên vết bỏng có thể gây tê cóng, làm da bị
tổn thương thêm.
Không làm vỡ bọng nước: Bọng nước vỡ rất dễ bị nhiễm trùng.
Bỏng độ 3
Những vết bỏng nặng nhất thường không đau và tổn thương tất cả các lớp của
da. Mỡ, cơ và thậm chí cả xương có thể bị ảnh hưởng. Vùng bỏng có thể bị cháy
đen hoặc có vẻ khô và trắng. Khó hít vào và thở ra, ngộ độc carbon monoxid hoặc
các ảnh hưởng độc hại khác có thể xảy ra nếu bệnh nhân hít phải khói kèm theo bị
bỏng.
Đối với bỏng nặng, gọi cấp cứu hoặc sự giúp đỡ của y tế. Trong khi chờ đợi, hãy
thực hiện những bước sau:
Không cởi quần áo bị cháy. Tuy nhiên, hãy đảm bảo là nạn nhân không còn
tiếp xúc với chất liệu đang cháy âm ỉ hoặc khói hay sức nóng.
Không ngâm vết bỏng rộng và nặng vào nước lạnh. Làm như vậy có thể gây
sốc.
Kiểm tra các dấu hiệu tuần hoàn (thở, ho hoặc cử động). Nếu không thấy
thở hoặc các dấu hiệu khác của tuần hoàn, tiến hành hồi sức tim phổi.
Che phủ vùng bị bỏng. Dùng băng vô trùng lạnh, ẩm; quần áo sạch, ẩm hoặc
khăn ẩm
32.
NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU PHOSPHO HỮU CƠ
4 loại phospho hữu cơ đã và đang được sử dụng phổ biến ở nước ta là:
Thiophốt (Parathion) màu vàng, mùi tỏi, dạng nhũ tương.
Vôfatốc (methyl parathion) màu nâu thẫm (dạng nhũ tương) hoặc màu đỏ
tươi (dạng bột) mùi cỏ thối.
Dipterec dạng tinh thể, màu trắng.
DDVP (dichloro diphenyl vinyl phosphat) màu vàng nhạt.
Phospho hữu cơ xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, da, niêm mạc (nhất là
mắt) và chủ yếu là đường tiêu hóa (do bàn tay dính thuốc, ăn uống nhầm, tự tử,
đầu độc...).
Triệu chứng ngộ độc phospho hữu cơ
có 2 nhóm triệu chứng chính:
Giống muscarin: kích thích hệ thần kinh phó giao cảm, gây:
co đồng tử (có khi co nhỏ như đầu đinh,
tăng tiết (vã mồ hôi, nhiều nước bọt),
tăng co bóp ruột: đau bụng, nôn mửa,
co thắt phế quản: tím tái, phù phổi, có thể liệt hô hấp,
hạ huyết áp.
Giống nicotin: kích thích các hạch thần kinh thực vật và hệ thần kinh trung ương.
giật cơ, co cơ: co giật mi mắt, cơ mặt, rút lưỡi, co cứng toàn thân...
rối loạn phối hợp vận động...
hoa mắt, chóng mặt, run, nói khó, nhìn lóa, nặng thì hôn mê.
Chẩn đoán
Thường thì chẩn đoán không khó, nếu là vô tình bị ngộ độc, thì triệu chứng quan
trọng và khá đặc trưng là đồng tử co nhỏ, vã mồ hôi và nước bọt tiết nhiều...
Xét nghiệm máu: hoạt độ men cholinesterase bình thường ở nam giới là
2,54 ? 0,53 micromol, nữ giới: 2,18 ? 0,51 micromol. Nếu giảm 30% là
nhiễm độc nhẹ, giảm 50%: nhiễm độc vừa, giảm trên 70% là nhiễm độc
nặng.
Xét nghiệm nước tiểu định lượng paranitrophenol: chỉ có trong nước tiểu
người ngộ độc Thiôphốt và Vôfatốc.
Xử trí
phải rất khẩn trương, sớm phút nào lợi phút ấy.
Xử trí theo đường ngộ độc
Nếu uống phải: bệnh nhân còn tỉnh: ngoáy họng gây nôn, đồng thời cho
uống nhiều nước để hòa loãng chất độc. Rửa dạ dày trước 6 giờ, mỗi lần
rửa dùng khoảng 20-30 lít nước sạch (đun ấm nếu trời rét), sau 3 giờ phải
rửa lại. Hòa vào mỗi lít nước 1 thìa cà phê muối và 1 thìa to (20g) than hoạt
tính. Sau mỗi lần rửa, cho vào dạ dày 200ml dầu parafin (người lớn) và
3ml/kg thể trọng (trẻ em).
Nếu hấp thụ qua da: bỏ hết quần áo bị nhiễm và rửa da bằng nước và xà
phòng.
Nếu nhiễm vào mắt: rửa mắt bằng nước trong 10'.
Hồi sức:
Sulfat atropin liều cao: giải quyết triệu chứng nhiễm độc giống muscarin. Phải cho
đầu tiên, tiêm ngay tức khắc khi xác định là ngộ độc phospho hữu cơ. Tiêm
atropin ngay sau khi đặt nội khí quản và hô hấp hỗ trợ.
Trường hợp ngộ độc nặng: tiêm tĩnh mạch 2-3mg, sau đó cứ cách 10' lại
tiêm một lần cho đến khi đồng tử bắt đầu giãn thì chuyển sang tiêm dưới
da, cứ cách 30' lại tiêm 1-2mg cho đến khi tỉnh lại và đồng tử trở lại bình
thường. Tổng liều có thể tới 20-60mg. Liều thường dùng: 24mg/24h.
Ngộ độc vừa: tiêm dưới da 1-2mg, cứ 15-30' một lần. Tổng liều 10-30mg.
Ngộ độc nhẹ: tiêm dưới da 0,5-1mg, 2 giờ 1 lần. Tổng liều 3-9mg.