1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.84 KB, 38 trang )


Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho

người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.

2. Phân loại tín dụng thương mại

Tín dụng thương mại là loại tín dụng rất phổ biến trong tín dụng quốc tế, là

loại tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp cấp cho nhau vay, không có sự tham

gia của ngân hàng hoặc cũng có thể hiểu là loại tín dụng được cấp bằng hàng

hóa dịch vụ chứ không phải bằng tiền. Có ba loại tín dụng thương mại

a. Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu (gọi là tín dụng xuất khẩu) :

Là loại tín dụng do người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu để đẩy mạnh

xuất khẩu hàng hóa. Tím dụng xuất khẩu được cấp dưới hình thức chấp nhận hối

phiếu và mở tài khoản.

- Cấp tín dụng bằng chấp nhận hối phiếu tức là thương nhân nhập khẩu ký

chấp nhận trả tiền vào hối phiếu do người xuất khẩu ký phát để nhận bộ chứng từ

hàng hóa thông qua ngân hàng hoặc người xuất khẩu gửi trực tiếp cho họ. Thời

hạn của loại tín dụng này phụ thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên bán và mua.

Tuy nhiên để phòng tránh rủi ro, luật các nước thường can thiệp bằng cách định ra

thời hạn cho loại tín dụng này. Ví dụ, luật nước Anh, Pháp quy định thời hạn từ 30

đến 90 ngày, luật Mỹ là 180 ngày, luật Nhật Bản quy định từ 180 đến 360 ngày.

- Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản tức là thương nhân xuất khẩu và

thương nhân nhập khẩu ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó qui

định quyền của bên bán được mở một tài khoản để ghi nợ bên mua sau mỗi

chuyến giao hàng mà bên bán đã thực hiện. Sau từng thời gian nhất định, người

mua sẽ phải thanh toán số nợ đó bằng chuyển tiền, chuyển Séc hoặc bằng Kỳ

phiếu trả tiền ngay.

b. Tín dụng thương mại cấp cho người xuất khẩu (gọi là tín dụng nhập khẩu):

Thực hiện: Nhóm 12



4



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



Là loại tín dụng do người nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu để nhập hàng

thuận lợi. Hình thức tồn tại của loại tín dụng nay là tiền ứng trước để nhập hàng.

Việc ứng tiền trước có tính chất khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể. Nếu

người xuất khẩu thiếu vốn do phải thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có kim

ngạch lớn thì tiền ứng trước mang tính chất tín dụng; còn ngược lại, nếu

người xuất khẩu không tin vào khả năng thực hiện hợp đồng của người nhập

khẩu mà bắt phải đặt cọc cho việc giao hàng, tiền ứng trước mang tính chất là

vật đảm bảo thực hiện hợp đồng. Khoản tiền ứng trước được hoàn trả bằng cách

khấu trừ dần vào số tiền hàng theo tỷ lệ cố định hoặc theo tỷ lệ tăng dần hoặc chỉ

một lần vào chuyến hàng giao cuối cùng.

c. Tín dụng nhà môi giới cấp cho người xuất khẩu và nhập khẩu:

Các ngân hàng thương nghiệp cỡ lớn thường không cấp tín dụng trực tiếp cho

các nhà xuất nhập khẩu mà thông qua nhà môi giới, loại hình này sử dụng rộng

rãi ở các nước Anh, Đức, Bỉ và Hà Lan. Người môi giới là các công ty lớn, có vốn

vay được từ các ngân hàng, hình thức cấp tín dụng rất đa dạng. Ví dụ cấp cho nhà

xuất khẩu gồm cho vay không phải cầm cố hàng hóa, cho vay cầm cố chứng từ

hàng hóa, cho vay chiết khấu hối phiếu,...Mọi tín dụng của người môi giới đều

là tín dụng ngắn hạn.



3. Đặc điểm của tín dụng thương mại

- Vốn cho vay theo tín dụng thuơng mại là hàng hoá hay một bộ phận của vốn

sản xuất chuẩn bị chuyển hoá thành tiền, chưa phải là tiền nhàn rỗi.

• Người cho vay (chủ nợ) và ngừoi đi vay (con nợ) đều là những doanh

nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.

• Khối luợng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối

luợng hàng hoá đuợc đưa ra mua bán chịu.



Thực hiện: Nhóm 12



5



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



-Một điều khoản tín dụng thương mại mà các doanh nghiệp thường thỏa thuận

khi sử dụng hình thức tín dụng này là: “2/10 Net 30” có nghĩa là nếu trả tiền mặt

trong vòng 10 ngày kể từ khi mua hàng, người mua sẽ được chiết khấu 2%

trên giá cả hàng bán, người mua sẽ phải trả toàn bộ giá bán sau 10 ngày và

được trả chậm trong vòng 30 ngày.

- Để đảm bảo người mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người

bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng

nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập

để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu

thương mại” hay “thương phiếu”. Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan

hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển,

thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường

trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương

tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.

4. Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại

Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nhận

nợ, được gọi là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu. Thương phiếu

là chứng chỉ có giá ghi nhận yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không

điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.

a. Phân loại thương phiếu

Dựa trên cơ sở người lập:

- Thương phiếu do người mua chịu lập ra gọi là lệnh phiếu.

- Thương phiếu do người bán chịu lập ra gọi là hối phiếu.

Dựa trên phương thức ký chuyển nhượng:

- Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi tên người thụ hưởng,

có thể chuyển nhượng nhưng tính rủi ro cao.

Thực hiện: Nhóm 12



6



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



- Thương phiếu đích danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng,

an toàn nhưng không chuyển nhượng được.

- Thương phiếu ký danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng,

nhưng trong thời gian chưa đến hạn thanh toán người ta vẫn có thể chuyển nhượng

bằng cách ký hậu.

b. Phân biệt “lệnh phiếu” và “hối phiếu”

- Hối phiếu (Bill of exchange-là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện dưới dạng

văn bản), tôi ký phát một hối phiếu yêu cầu bạn khi nhìn thấy hối phiếu hoặc sau 1

thời hạn nhất định sau khi nhìn thấy hối phiếu phải trả cho tôi một khoản tiền nào

đó vô điều kiện (thường thì nó được hình thành trong thanh toán quốc tế chẳng

hạn như tôi chuyển 1 lượng hàng hóa cho khách hàng và đồng thời tôi ký phát một

hối phiếu thông qua ngân hàng thu hộ của tôi tại nước ngoài sẽ giúp tôi nhận hàng

và yêu cầu khách hàng của tôi phải ký chấp nhận thanh toán vào mặt trước của hối

phiếu khi đó tờ hối phiếu chính thức có hiệu lực và ngân hàng thu hộ mới chính

thức giao hàng cho khách hàng của tôi).



Hối phiếu là quyền nằm trong tương lai, hối phiếu là hối thúc người khác thanh

toán nợ trong tương lai. Đến hẹn mà không thanh toán thì sẽ chịu phạt bằng lãi

xuất ngân hàng. Hối phiếu là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hối phiếu

có mệnh giá và có thể chuyền tay nhau cho đến ngày đáo hạn.

Thực hiện: Nhóm 12



7



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



- Lệnh phiếu (Promissory notes-là giấy nhận nợ vô điều kiên) chẳng hạn tôi

là 1 khách hàng của bạn nhưng do khó khăn hay bạn muốn tạo cho tôi thuận lợi về

vốn khi tôi gặp khó khăn bằng cách bán chịu hàng hóa khi đó tôi sẽ ký phát một

lệnh phiếu nhận nợ vô điều kiện một khoản tiền nào đó và trả vào một thời điểm

nào đó và trao cho bạn khi đó tôi sẽ nhận được hàng hóa tôi cần với sự giúp đỡ

của bạn bằng hình thức mua chịu).



Lệnh phiếu là quyền có sẵn ở hiện tại, ra lệnh cho ai đó phải thanh toán tiền

cho mình hoặc cho bên thứ ba. Thường thì lệnh phiếu được làm với ngân hàng

mình có tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng phải thanh toán tiền cho ai đó hoặc cho

chính mình, hay ủy nhiệm chi.

Một số điểm khác nhau giữa hối phiếu và lệnh phiếu:

+ Hối phiếu do chủ nợ lập, còn lệnh phiếu do người thiếu nợ lập.

+ Hối phiếu thông thường có 3 người quan hệ với nhau: Người phát hành hối

phiếu (người phát lệnh), người trả tiền theo hối phiếu (người thu lệnh) và người

hưởng thụ.

+ Còn lệnh phiếu thường có 2 người liên hệ: người phát lệnh phiếu và người

hưởng thụ.

Thực hiện: Nhóm 12



8



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



+ Hối phiếu thường gồm hai bản, lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ

phát ra để chuyển cho người hưởng lợi lệnh phiếu đó.

c. Tính chất của thương phiếu:

- Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát

sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và

người trả tiền.

- Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ

hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.

- Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng

sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang

đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Tính chất này khiến thương phiếu trở

thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và

mệnh giá thương phiếu.



d. Pháp luật về thương phiếu

Pháp luật về thương phiếu thương mại xuất hiện từ lâu (khoảng cuối thế kỷ XI

đầu thế kỷ XII) ở các nước Phương Tây, đáp ứng các yêu cầu tất yếu, khách quan

từ hoạt thương mại. Và ngày nay, thương phiếu được xem là một công cụ tín

dụng, một phương tiện thanh toán hữu hiệu trong hoạt động thương mại.

Xuất phát từ vai trò kinh tế của thương phiếu, các nước đã chú trọng xây dựng

một cách có hệ thống và tương đối cụ thể các quy phạm pháp luật nhằm tạo môi

trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của thương phiếu. không chỉ dừng lại ở hệ

thống pháp luật trong nước, trên phương diện quốc tế, pháp luật thương mại quốc

tế cũng đòi hỏi phải có sự thống nhất về luật pháp liên quan đến thương phiếu,

trong chừng mực có thể đạt được, để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của thương

nhân cũng như để bảo đảm một cách hữu hiệu sự tồn tại và hoạt động của thương

Thực hiện: Nhóm 12



9



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



phiếu. Điển hình là Công ước Geneve ngày 7 tháng 6 năm 1930 về hối phiếu và

lệnh phiếu đã được ký kết.

Từ đó đến nay, pháp luật thương mại quốc tế đã có rất nhiều các văn bản điều

chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương phiếu. Hơn nữa, điều

này nhằm đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế thế giới nói chung.

Ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng cơ chế tập trung, bao cấp. Nhà nước can

thiệp rất sâu trong hoạt động kinh tế. Các tổ chức kinh tế, công dân chưa được tự

do kinh doanh: pháp luật kinh doanh nói chung cũng như pháp luật thương mại

chưa được chú trọng. Điều này chỉ thật sự được đổi mới và phát triển từ khi Đảng

và Nhà nước chuyển hướng phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường

có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong hoàn cảng đó, thương phiếu và pháp luật thương phiếu chỉ được đề cập

trong những năm gần đây: Luật Thương Mại 1997. Pháp lệnh Thương phiếu

được UBTVQH thông qua ngày 24/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000,

và Nghị định số 32/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/07/2001 (gọi tắt là NĐ 32)

hướng dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu. Tuy nhiên, những văn bản

pháp luật vừa nêu vẫn được coi là chưa đủ để có một mội trường pháp lý thuận

tiện cho thương phiếu hoạt động

5. Vai trò của tín dụng thuơng mại

- Đối với doanh nghiệp:

+ Tín dụng thuơng mại là kênh tài trợ vốn thuận tiện cho doanh nghiệp trong

điều kiện tài chính hiện tại. Trong thực tế, do có sự khác biêt về chu kỳ sản xuất –

kinh doanh giữa các doanh nghiêp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiều

vốn ở doanh nghiệp kia là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kịên

thành phầm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh

nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu đuợc thực hiện trong một thời hạn

Thực hiện: Nhóm 12



10



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thuơng mại. so với

những điều kiện ràng buộc của các kênh tài trợ từ việc phát hành cổ phiếu, trái

phiếu và vay ngân hàng thì nguồn tài trợ thông qua chiếm dụng vốn của đối tác

đuợc doanh nghiệp khia thác triệt để do những nguyên nhân sau:

• Quan hệ tín dụng thuơng mại chủ yếu dựa trên cơ sở tín chấp, không co

những ràng buộc về tài sản thế chấp cho khoản tín dụng mà doanh

nghiệp đuơc thụ huởng ngoài việc thực hiện đúng với cam kết thanh

toán cho nhà cung ứng.

• “Nguời cho vay” – nhà cung ứng thuờng không yêu cầu doanh nghiệp

xuất trình phuơng án sản xuất kinh doanh hay chứng minh tính minh

bạch của báo cáo tài chính mà chỉ cần doanh nghiệp thực hiện đúng

cam kết doanh số hai bên đã thoả thuận.

• Trong quan hệ mua bán chịu, ngừoi mua thuờng có nhiềi lợi thế hi7n

nguời bán do sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng, từ đó doanh nghịêp

có nhiều cơ hội đàm phán các điều khoản tín dụng thuơng mại có lợi

hơn cho mình, cụ thể như đê nghị ngày công nợ lâu hơn hay hạn mức

mnợ lớn hơn.

• Có đuợc tín dụng thuơng mại từ nàhcung ứng, doanh nghiệp sẽ có

nguồn đầu vào ổn định để hoạch định những kế hoạch sản xuất, kinh

doanh dài hạn của đơn vị mình. Hơn nữa, những đối tác lâu dài với nhà

cung ứng còn đuợc hỗ trợ tư vấn thêm về kỹ thuật sản phẩm, đào toạ kỹ

năng bán hàng cho nhân viên và đuợc cung cấp những thông tin thị

trờng giúp doanh nghiệp có thể ứn phó truớc những biến động của

ngành mà có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

+ Đưa hàng hoá ra thị trờng nhanh hơn, hạn chế các rủi ro giảm giá do tồn kho

lâu ngày.

+ Phát triển hệ thống khách hàng trung thành và giao dịch thuờng xuyên.



Thực hiện: Nhóm 12



11



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



+ Gia tăng doanh sô bán và chiếm lĩnh một khu vực thị trờung nào đó.

- Đối với xã hội:

+ Tín dụng thuơng mại góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

hông qua việc mua bán chịu, tín dụng thưong mại tài trợ nguồn vốn lưu động cho

các doanh nghiệp để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.

+ Tín dụng thuơng mại góp phần làm phong phú nguồn hàng hoá trên thị

truờng, bằng việc cấp hạn mức tín dụng cho các kênh phân phối, đại lí của các nhà

sản xuất đã đưa hàng hoá tới tay ngừoi tiêu dùng nhanh hơn và đáp ứng tốt hơn

nhu cầu tiêu dùng của xã hội.

+ Tín dụng thuơng mại còn góp phẩn ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm

cho xã hội. nền kinh tế phát triển với hệ thống các nhà phân phối hoạt động hiệu

quả sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội.\



6. Ưu - nhược điểm của tín dụng thương mại

a. Trong nước

Ưu điểm:

- Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông

hàng hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại.

- Tín dụng thương mại tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh

nghiệp một cách trực tiếp mà không thông qua bất kỳ cơ quan trung gian nào.



Thực hiện: Nhóm 12



12



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



- Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên

có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy

nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.

- Tín dụng thương mại góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu

thông, làm giảm chi phí lưu thông xã hội.

- Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp

vụ chiết khấu, bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập

nhưng ít rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.

- Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi

cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách

chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán

hoá các khoản cho vay của ngân hàng.

- Tín dụng thương mại tạo ra thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường

mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối

tiền trong lưu thông.

- Tạo thuận lợi với doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với nhà cung cấp.



Nhược điểm

- Về quy mô: lượng giá trị cho vay bị hạn chế do tín dụng thương mại được

cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có thể cung cấp được cho một số

doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ

sản xuất hoặc bán ra. Hơn nữa, Tín dụng thương mại là do các nhà doanh nghiệp

cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu

cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.



Thực hiện: Nhóm 12



13



Đề tài: Tín dụng thương mại Việt Nam



Môn: Nhập môn Tài chính tiền tệ



- Về phạm vi: Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ

thực hiện được giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau và chỉ đầu tư

một chiều, không có quan hệ cho vay ngược lại.

- Về thời gian: thời hạn tín dụng ngắn thường là dưới 1 năm, điều kiện kinh

doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau, do vậy

khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp không phù hợp với nhu cầu

của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy ra.

- Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.

- Do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp

thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan

hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều

này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn

tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.

- Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá,

người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có

lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra.

- Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi

vẫn còn kém.

b. Quốc tế:

Ưu điểm:

- Đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội khi mà các nguồn

vốn trong nước còn hạn chế.

- Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế một cách nhanh chóng

- Mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới

Nhược điểm:

Thực hiện: Nhóm 12



14



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

×