1. Trang chủ >
  2. Kỹ thuật >
  3. Điện - Điện tử - Viễn thông >

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 64 trang )


19.



Danh mục tín dụng



DMTD



DANH MỤC BẢNG BIỂU



Bảng Trang

Trang

Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn của NHNT38

38

Bảng 2.2: Dư nợ và tổng tài sản NHNT 1999-200339



39



Bảng 2.3: Lợi nhuận của NHNT từ 1999-200340

40

Bảng 2.4: Nợ xấu/Tổng dư nợ của các NHTM43

43

Bảng 2.5:Nợ xấu của NHNT thời điểm 31.12.200044



44



Bảng 2.6: Phân loại nợ xấu thời điểm 31.12.2000 theo nhóm của NHNT45 45

Bảng 2.7:Tổng hợp nợ xấu tại NHNT 2000-200346



46



Bảng 2.8: Quỹ DPRR và sử dụng quỹ DPRR của NHNT 2000-200351

51

Bảng 2.9: Cơ cấu danh mục tài sản thế chấp, cầm cố tại NHNT54



54



Biểu đồ:

Biểu đồ 2.1: Tổng tài sản NHNT năm 2000-200337



37



Biểu đồ 2.2: Dư nợ / Tổng tài sản của NHNT42



42



Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ nợ xấu tín dụng NHNT tại 31.12.200045



45



Biều đồ 2.4: Nợ xấu / Dư nợ47



47



4



Sơ đồ:

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức NHNT Việt Nam 34



34



Sơ đồ 3.1: Tổ chức quản lý nợ xấu76

76

Sơ đồ3.2: Quy trình giám sát và xử lý nợ xấu77



77



LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Công cuộc cải cách kinh tế tại Việt Nam được thực hiện từ năm 1986 và đã

mang lại nhiều thành tựu kinh tế trên mọi mặt của thập kỷ 90. Cùng với tiến trình

cải tổ, hệ thống ngân hàng cũng được đổi mới một cách đáng kể. Tuy nhiên, Việt

Nam vẫn là một nước nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực trên nhiều

phương diện. Riêng hệ thống tài chính trong nước với các ngân hàng thương mại

chiếm đa số, còn nhiều yếu kém và chưa đủ năng lực huy động các nguồn lực cần

thiết cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế, nợ xấu còn nhiều và có xu hướng gia tăng.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia nhiều cam kết mở cửa thị trường tài chính và

hội nhập quốc tế, điều này khiến hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải cải cách

tòan diện và sâu sắc để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của nền kinh tế trong tiến

trình hội nhập và phát triển này. Trong bối cảnh chung như vậy, đòi hỏi tất yếu đặt

ra cho các NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng phải có các biện pháp

cải tổ một cách toàn diện nhằm tăng cường hiệu qủa hoạt động, cũng như khả năng

cạnh tranh trong một môi trường mới. Một trong những việc cần giải quyết bước

đầu của NHNT đó là xử lý nợ xấu và cần nghiên cứu một cách nghiêm túc để đưa ra

được các giải pháp hạn chế nợ xấu trong tương lai. Thực hiện điều này là một

chương trình trọng tâm lớn trong tiến trình tái cơ cấu NHNT Việt Nam, tạo ra điểm



5



tựa vững chắc trong quá trình cải cách sâu rộng hơn nữa của nền kinh tế và tiến

trình thực hiện đổi mới, hiện đại hóa Ngân hàng Ngoại thương.

Nhận thức được tầm quan trọng này, mà đề tài “Giải pháp hạn chế nợ xấu

tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” đã được tác giả lùa chọn làm đề tài luận

văn thạc sỹ nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu

-



Trình bày những vấn đề về nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM và

nghiên cứu quá trình hình thành và phát sinh nợ xấu.



-



Đánh giá tình hình nợ xấu và hạn chế nợ xấu tại NHNT Việt Nam thời gian qua.

Phân tích các nguyên nhân phát sinh nợ xấu và tồn tại trong công tác hạn chế

nợ xấu tại NHNT Việt Nam.



-



Đề xuất các giải pháp đồng bộ để hạn chế nợ xấu trong tương lai tại NHNT Việt

Nam.



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nợ xấu của NHTM trong họat động tín

dụng.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về thực trạng nợ xấu trong

hoạt động tín dụng tại NHNT Việt Nam trong giai đoạn 2000-2003.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp

các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử, phương pháp phân tích hệ thống, thống kê và so sánh để tiến hành

nghiên cứu đề tài.

5. Kết cấu của luận văn

6



Ngoài phần Lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của Luận văn bao gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong hoạt động tín dụng của Ngân

hàng Thương mại

Chương 2: Thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Chương 3: Các giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu tại Ngân hàng Ngoại thương

Việt Nam



CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ XẤU TRONG HOẠT

ĐỘNG TÍN DÔNG

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng ngân hàng

1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng

Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh

tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói

chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường

chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Có

nhiều cách tiếp cận để đưa ra được một khái niệm về ngân hàng thương mại, song

cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện

những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài

chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín

dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so

với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trong đó tín dụng là loại

tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc

trưng của ngân hàng.

Có thể thấy tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên

là Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vự tiền tệ với một bên là

tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng đóng vai trò vừa là

người huy động vừa là người cho vay.

7



Với tư cách là người đi huy động. Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm

thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ

chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong

xã hội. Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh

nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt

động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này Ngân hàng đã thực hiện

chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội. Cơ sở

khách quan để hình thành các chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng

Ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội

đã thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này,

trong khi đó ở các tổ chức cá nhân khác lại thiếu vốn cần được bổ sung. Hiện tượng

thừa vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu

nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái sản xuất đòi hỏi

phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại cũng đã giải quyết quan hệ trực

tiếp giữa các doanh nghiệp cần tiêu thụ hàng hóa với các doanh nghiệp có nhu cầu

sử dụng hàng hóa mà chưa có tiền. Nhưng do hạn chế của tín dụng thương mại đã

không đáp ứng được nhu cầu vay vốn với khối lượng, thời hạn khác nhau. Chỉ có

Ngân hàng chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu

thuẫn khi Ngân hàng vừa giữ vai trò là người đi huy động vừa giữ vai trò là người

cho vay.

1.1.2 Rủi ro tín dụng Ngân hàng

Đây là rủi ro cần được đề cập trước tiên đối với Ngân hàng. Ngân hàng cho

vay và đầu tư chứng khoán, những tài sản mà không có gì khác hơn một cam kết

thanh toán. Khi người vay tiền không thể thanh toán được vốn và lãi, những khỏan

cho vay, đầu tư không thể thu hồi này cuối cùng sẽ ăn mòn hết vốn của ngân hàng.

Bởi vì vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường thấp hơn 10% các khoản cho vay và

đầu tư chứng khoán nên chỉ cần một lượng nhỏ các khỏan cho vay và đầu tư trở nên

không thể thu hồi được thì vốn ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm, không

đủ để gánh chịu thêm bất cứ khỏan thua lỗ nào khác. Trong tình trạng này ngân

hàng sẽ phải tuyên bố phá sản và đóng cửa trừ khi những nhà chức trách đồng ý duy

trì nó ở tình trạng “lơ lửng” cho đến khi tìm được tổ chức đồng ý mua lại ngân

hàng.



8



Nói chung, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả

đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.

Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất

của ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài

trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích, đánh giá người vay sao cho độ an toàn là

cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín

dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào

có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xẩy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của

khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân

hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan

điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là khó có thể tránh khỏi, là khách

quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh,

có thể đề phòng, hạn chế, chứ khó có thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được

xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng. Điều này cũng có

nghĩa, rủi ro tín dụng luôn là khách quan, là nguyên nhân chính gây ra những khỏan

nợ xấu trong ngân hàng và các khoản nợ xấu này cũng như một tồn tại khách quan,

song hành với tiến trình hoạt động của ngân hàng. Cũng từ điều đó mà ta chỉ có thể

hạn chế “Nợ xấu” mà thôi.

1.2



Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại



1.2.1 Quan niệm về nợ xấu.

1.2.1.1Quan niệm của một số nước





Những chuẩn mực quốc tế tiêu biểu

Dưới đây là một số đặc điểm nhận dạng, đánh giá một khoản tín dụng để sắp



xếp chúng vào từng hạng mục chất lượng tín dụng khác nhau do IMF và WB đưa ra

áp dụng.

Khoản vay

Đạt

tiêu -



Những đặc thù và thời hạn

Không nghi ngờ gì về khả năng trả nợ



chuẩn



-



Tài sản được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền hoặc tương đương



Cần theo dõi



-



Quá hạn dưới 90 ngày

Những điểm yếu tiềm tàng có thể ảnh hưởng tới khả năng trả



nợ

-



Các điều kiện kinh tế hoặc viễn cảnh tài chính khó khăn

9



tiêu -



Dưới

chuẩn



Quá hạn dưới 90 ngày.

Các nhược điểm rõ rệt về tín dụng có thể ảnh hưởng tới khả



năng trả nợ

-



Đáng ngờ



Những khoản nợ đã được thỏa thuận lại



-



Quá hạn từ 90-180 ngày

Không chắc thu hồi được toàn bộ nợ dùa trên các điều kiện



hiện tại.

-



Qúa hạn từ 180-360 ngày

Các khoản vay không thu hồi được



-



Mất



Có khả năng thất thoát.



Luôn có khả năng thu hồi lại một phần



Quá hạn hơn 360 ngày.

(Nguồn: The Bank Credit Analysis Handbook, author Jonathan Golin)

Bản chất của cách phân chia này là luôn căn cứ vào 02 yếu tố định tính và

định lượng của một khoản vay. Định tính là các yếu tố liên quan đến rủi ro của

khoản vay, định lượng là ngày qúa hạn của khoản vay. Theo đây, tất cả các khoản

vay mà từ mức dưới tiêu chuẩn trở xuống thì được gọi là nợ xấu.

• Quan niệm của ngân hàng liên minh Châu Âu

Chưa có một khái niệm đầy đủ về “ Nợ xấu” trong hoạt động của các ngân

hàng thương mại, các Ngân hàng lớn trên thế giới thì xây dùng cho mình một tiêu

chí riêng để theo giõi và giám sát. Tuy nhiên, theo một số tiêu chí của Ngân hàng

trung ương Liên minh Châu Âu thì có thể xác định nợ xấu trong hoạt động của các

Ngân hàng thương mại như sau:

a.



Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được như:



-



Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi



bồi thường từ người mắc nợ.

-



Người mắc nợ bỏ trèn hoặc bị mất tích, không có gia tài hoặc tài sản giữ lại



để thanh toán nợ.

-



Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng



phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được

chuyển để thanh toán nợ nhưng giá trị còn lại không đủ để trang trải tòan bộ nợ.



10



-



Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc



thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.

b.



Nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng



-



Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ



hoặc không thể tìm được con nợ.

-



Những khoản nợ mà khách nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu sắp xếp lại lịch



trả nợ nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận.

Những khoản nợ mà không có tài sản thế chấp, hoặc tài sản thế chấp không

đủ để trả nợ và hoàn trả khi đến hạn, hoặc tài sản thế chấp ở Ngân hàng không

được chấp thuận về mặt pháp lý và hoạt động kinh doanh của khách nợ bị thua lỗ

trong một vài năm, hoặc việc kinh doanh bị chấm dứt, hoặc đang trong qúa trình

thanh lý tài sản và điều đó có nghĩa là người mắc nợ không thể trả nợ Ngân hàng

đầy đủ.

Những khỏan nợ đến hạn thanh toán và hoàn cảnh cho thấy sự can thiệp của

tòa án phải được thực hiện đến cùng hoặc tòa án can thiệp buộc việc trả nợ phải

được thực hiện.

Những khỏan nợ mà tòa án tuyên bố khách nợ bị phá sản và Ngân hàng đã

yêu cầu trả nợ và cho rằng phần bồi hoàn sẽ Ýt hơn dư nợ.





Quan điểm định lượng của India và Philippines

Tiêu chuẩn



India



Philippines



Dưới tiêu chuẩn



Quá hạn 6 tháng



Quá hạn 3 tháng



Nghi ngờ



Qúa hạn 24 tháng



Qúa hạn 12 tháng



Mất



Quá hạn 24 tháng + có dấu Quá hạn 12 tháng + có dấu

hiệu rõ ràng mất vốn

hiệu mất vốn.



1.2.1.2Quan niệm của Việt Nam

Công cuộc cải cách kinh tế tại Việt Nam được thực hiện từ năm 1986 và đã

mang lại nhiều thành tựu kinh tế trên mọi mặt trong thập kỷ 90. Cùng với tiến trình

cải tổ, hệ thống ngân hàng cũng đã được đổi mới đáng kể. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn

là một nước nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực trên nhiều phương

diện. Riêng hệ thống tài chính trong nước với các Ngân hàng chiếm đa số, còn

nhiều yếu kém và chưa đủ năng lực huy động các nguồn lực cần thiết cho nhu cầu

tăng trưởng kinh tế. Điều đáng lo ngại nhất hiện nay là các Ngân hàng thương mại

11



chưa thực sự lành mạnh, nợ xấu còn tồn đọng nhiều và có chiều hướng gia tăng từ

sau năm 1997. Hiện tại, Việt Nam đang thực hiện chương trình cơ cấu lại các Ngân

hàng thương mại. Trong đó, bên cạnh việc tăng vốn, cơ cấu lại nợ khó đòi, Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam cũng đề ra yêu cầu ngăn chặn nợ xấu phát sinh trong

những năm tới đối với các Ngân hàng thương mại.

Về vấn đề nợ xấu, trong các sách giáo khoa tài chính nước ngoài, người ta đã

đưa ra một số định nghĩa về nợ quá hạn như: Nợ xấu, nợ quá hạn, nợ có vấn đề.

Trong đó, nợ xấu là các khoản nợ hầu như khó có khả năng được thanh toán đầy đủ

và phần lớn bắt buộc phải xử lý bằng bót toán xóa nợ.

Ở Việt Nam dường như không có định nghĩa thống nhất về nợ xấu. Điều đó

có nghĩa là mặc dù hoạt động ngân hàng đã được chuyển sang kinh doanh theo cơ

chế thị trường nhưng Việt Nam vẫn chưa có một văn bản pháp quy nào chính thức

thừa nhận khái niệm nợ xấu. Ngoài ra, điều đó cũng nói lên rằng, nợ quá hạn ở Việt

Nam đã tồn tại khá nhiều năm trong hệ thống Ngân hàng mà chưa có những giải

pháp xử lý thống nhất và bài bản.

Tuy nhiên, một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước cũng có những quy

định gián tiếp đề cập đến nợ quá hạn. Theo Điều 13, Quy chế cho vay của tổ chức

tín dụng đối với khách hàng (ban hành theo Quyết định 1627/QĐ-NHNN ngày

31/12/2001), “khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ

đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi hoặc không được

gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ

quá hạn”.

1.2.1.3 Quan điểm của tác giả

Như trên đã trình bày, quan điểm quốc tế khi phân loại tín dụng thì người ta

căn cứ vào 02 thuộc tính: Định tính và định lượng. Trong đó, định tính là căn cứ

vào các dấu hiệu phản ánh/ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng, định

lượng thì là ngày quá hạn của khoản vay đó. Như vậy, khi một khỏan vay có một

trong các dấu hiệu sau được gọi là nợ xấu: Có dấu hiệu rõ dệt ảnh hưởng tới khả

năng trả nợ ngân hàng hoặc được cơ cấu lại, quá hạn từ 90 ngày trở lên.

Với quan điểm nợ xấu là những khoản nợ khó có thể thu hồi, hay thu hồi

không đầy đủ và phải mất quá nhiều thời gian, cộng với tình hình thực tế tại các



12



NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, trong khuôn khổ luận văn này,

chúng tôi cho rằng những khỏan nợ quá hạn thông thường, nợ khoanh, nợ cho

vay bắt buộc, nợ chờ xử lý, nợ tài sản xiết nợ và nợ ngân sách Nhà nước là nợ

xấu. Xin lưu ý rằng, khái niệm về nợ xấu được đưa ra ở đây không nhằm mục tiêu

bàn luận mang tính chất học thuật mà chỉ nhằm giới hạn một phạm vi phân tích và

tạo ra cơ sở đánh gía mức độ nợ xấu thực tế, từ đó để đưa ra các giải pháp nhằm

hạn chế nợ xấu trong tương lai.

Trong đó:

-



Nợ quá hạn thông thường : Theo thông lệ quốc tế, khi một khoản vay đến kỳ

hạn trả nợ gốc hoặc lãi mà không trả được lãi hoặc nợ gốc thì đều được xếp vào

danh mục khoản vay không hoạt động hay nợ quá hạn. Tuy nhiên, các nước vẫn

có quy định khác nhau khi xếp một khoản vay vào danh mục nợ quá hạn. Ví dụ

ở Thái Lan, nợ quá hạn là khoản vay đã quá hạn 3 tháng kể từ thời hạn phải

hoàn trả nợ gốc. Còn ở Việt Nam theo Điều 13, Quy chế cho vay của tổ chức tín

dụng đối với khách hàng “ Khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách

hàng không trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và

không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ

gốc hoặc lãi, thì TCTD chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn”.



-



Nợ khoanh: Theo quy định của Việt Nam, nợ khoanh là các khoản nợ quá hạn

của các doanh nghiệp nhà nước được Chính phủ cho phép khoanh nhưng Chính

phủ chưa xử lý dứt điểm. Loại nợ này gây khó khăn lớn cho các ngân hàng do

không thu hồi được vốn và không được thanh toán lãi trong thời gian từ 3 đến 5

năm.



-



Nợ cho vay bắt buộc: Là những khoản cho vay bảo lãnh của ngân hàng đã quá

hạn thanh toán.



-



Nợ chờ xử lý: Bao gồm những khoản nợ quá hạn có tài sản bảo đảm hoặc có bảo

lãnh của bên thứ ba mà khách hàng vay không có khả năng trả nợ cho ngân

hàng. Ngân hàng được quyền sử dụng tài sản đã được thế chấp và cầm cố thay

cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Nhưng những tài sản này còn đang trong

thời gian chờ phán quyết của Tòa án hoặc con nợ chưa giao cho ngân hàng.



13



-



Nợ tài sản xiết nợ: Đó là những khoản nợ quá hạn của ngân hàng có tài sản bảo

đảm, khi khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng xiết nợ tài sản này thay

cho nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.



-



Nợ ngân sách: Đó là các khoản nợ cho vay theo chỉ định của Chính phủ đã tồn

đọng lâu ngày mà chưa đối chiếu được với Bộ Tài chính.



1.2.2 Nguyên nhân gây ra nợ xấu.

1.2.2.1



Nguyên nhân khách quan



a. Rủi ro từ phía Khách hàng vay vốn

Đây là nguyên nhân trực tiếp thường gặp làm phát sinh nợ xấu. Khi khách

hàng gặp khó khăn trên thị trường đầu vào do giá cả nguyên vật liệu tăng đột biến,

khan hiếm nguyên vật liệu....làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh

tranh của sản phẩm trên thị trường, hoặc sự suy giảm nhu cầu trên thị trường đầu

ra..v..v .. khiến khách hàng lâm vào tình trạng thua lỗ, đình đốn gây ra tình trạng

mất khả năng thanh toán các khoản vay của ngân hàng. Ngoài ra, sự yếu kém trong

kinh doanh của khách hàng như: chiến lược kinh doanh không hợp lý, quản lý vốn

lỏng lẻo, trình độ cán bộ quản lý bất cập hay từ sự cố tình muốn chiếm đoạt vốn của

khách hàng... cũng dẫn đến nguy cơ không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Đâu là

thực trạng thường gặp tại các nước đang phát triển khi nền kinh tế đang có những

bước chuyển biến sâu sắc, các lĩnh vực kinh doanh còn bỏ ngỏ, cơ hội nhiều và rủi

ro kinh doanh cũng rất lớn. Trong những trường hợp này, Ngân hàng thường phải

tiến hành xem xét, đánh giá để quyết định phương án xử lý phù hợp. Ngân hàng có

thể thực hiện xiết nợ hoặc đồng ý khoanh nợ, giãn nợ theo các giải pháp khắc phục

của khách hàng.

Rủi ro khách quan của khách hàng trong kinh doanh có rất nhiều nguồn gốc

khác nhau: cụ thể:

Thứ nhất: Những điều kiện thiên nhiên bất lợi

Đây là những nguyên nhân nằm trong nhóm nguyên nhân bất khả kháng

như: hạn hán, bão lụt, động đất, hỏa hoạn, mất mùa dịch bệnh... những rủi ro loại

này thường có đặc điểm là không thể dự đoán trước và diễn biến nhanh chóng trên

phạm vi rộng nên việc hạn chế là vô cùng khó khăn hoặc không thể tránh khỏi.



14



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

×