Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 139 trang )
25
Hình 2.1 Đồ thị tỷ giá thực song phương các đồng tiền so với USD
160
140
Singapore
120
Thailand
Chinese Taipei
100
Republic of Korea
Japan
80
China, People's Republic of
60
France
40
Australia
Germany
United States
Viet Nam
20
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Nguồn: bảng 2.1 của phụ lục 2
2.1.2 Phân tích mức độ định giá của từng đồng tiền
Đô la Mỹ cố định bằng 100 cho cả thời kỳ từ 2000 đến 2008. Trên đồ thị
đường biểu diễn tỷ giá thực của Mỹ là đường nằm ngang có tung độ là 100. Nếu tỷ
giá thực của một đồng tiền nằm phía trên đường này (tỷ giá thực lớn hơn 100) thì
đồng tiền đó bị định giá thấp so với USD, ngược lại nếu nằm phía dưới được gọi là
định giá cao so với USD.
Căn cứ vào tỷ giá thực tính được, tác giả tiến hành so sánh xếp hạng cho tỷ
giá thực song phương của từng đồng tiền (Bảng 2.2 của phụ lục 2).
Tỷ giá thực một đồng tiền có thứ hạng càng cao (thứ hạng được sắp xếp theo
thứ tự, cao nhất là 1 và thấp nhất là 10) có nghĩa là tỷ giá thực song phương của
đồng tiền đó càng nhỏ hơn so với tỷ giá thực song phương của các đồng tiền khác.
Thứ hạng cao, đồng tiền bị định giá cao và ngược lại, thứ hạng thấp đồng tiền bị
định giá thấp hơn so với các đồng tiền khác. Hay nói cách khác, thứ hạng cao chỉ
phản ánh mức độ định giá trị thực của đồng tiền này cao hơn mức độ định giá thực
của đồng tiền khác khi cùng so sánh với USD (do có RER thấp hơn).
Ví dụ đồng đô la Australia (AUD) được xếp hạng nhất từ năm 2004 đến
2008 trong bảng trên vì có tỷ giá thực so với USD thấp nhất, có nghĩa AUD bị định
giá cao nhất so với các đồng tiền khác trong “rổ tiền” trong cùng thời gian.
Dấu hiệu để biết đồng tiền nào đó bị định giá cao so với USD là khi tỷ giá
thực song phương của nó nhỏ hơn 100. Ví dụ, tiền đồng và nhân dân tệ cùng bị định
giá thấp so với USD trong năm 2005, nhưng mức độ định giá của tiền đồng cao hơn
26
Nhân dân tệ do chỉ số tỷ giá thực thấp hơn của nhân dân tệ (101.9 so với 104,96), tỷ
giá thực của Việt Nam đứng hàng thứ sáu, Trung Quốc đứng vị trí thứ 7.
Từ đồ thị 2.1, ta thấy rằng tỷ giá thực của tiền đồng so với USD giảm dần và
có chỉ số thấp nhất vào năm 2008. Với cách lấy kỳ gốc là năm 2000 và tỷ giá được
thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như các tổ chức tài chính quốc tế, các công bố
của các cơ quan tài chính của chính phủ Mỹ như đã nêu ở trên, kết quả tính tỷ giá
thực song phương VND/USD (RERVND/USD) có sự khác biệt (dù nhỏ) so với cách
thu thập số liệu tỷ giá từ trong nước (có cùng kỳ gốc là năm 2000). Cụ thể nếu tính
theo số liệu tỷ giá thu thập trong nước, RERVND/USD có bốn năm liên tiếp từ 2005
đến 2008 dưới 100 (có nghĩa là tiền đồng bị định giá cao), còn nếu tính theo số liệu
tỷ giá được thu thập từ nước ngoài, tiền đồng chỉ bị định giá cao trong ba năm cuối.
Các năm từ 2002 đến 2004, chỉ số tỷ giá thực VND/USD khá cao (tiền đồng
được định giá thấp hơn so với hầu hết các đồng tiền khác, đứng hàng thứ 7 và 8 trên
9 đồng tiền). Đến ba năm cuối của kỳ nghiên cứu, tỷ giá thực của Việt Nam đồng
giảm dần, mức độ định giá của tiền đồng đứng hàng thứ 5/9 và thứ 4/9 đồng tiền
trong “rổ tiền”. Cũng trong ba năm này, tiền đồng bị định giá cao so với USD. Một
vài năm trở lại đây, có sự gia tăng mức định giá cao của tiền đồng so với “rổ tiền”,
điều này cho thấy rằng tiền đồng ngày càng tăng giá so với các đồng tiền trong “rổ”.
Mặt khác, ba năm trở lại đây tiền đồng liên tục bị định giá cao so với đô la Mỹ (tỷ
giá thực của Việt Nam nhỏ hơn 100).
Đồng đô la Autralia, Euro, Baht Thái là những đồng tiền bị định giá thực cao
nhất tính đến cuối 2008. Đồng won của Hàn Quốc năm 2008 bị mất giá mạnh nhất,
tỷ giá đồng won đã tăng 18,23% so với năm 2007 đưa đồng tiền này từ vị trí bị định
giá cao đứng hàng thứ ba xuống vị trí thứ bảy so với rổ tiền, nhưng vẫn còn bị định
giá cao so với USD. Ngược lại, trong hầu hết thời gian xem xét, đồng yen Nhật là
đồng tiền mất giá mạnh nhất so với USD, và mức độ mất giá của nó cao nhất so với
các đồng tiền khác trong rổ tiền. (hạng 10 trong tám năm và hạng 9 trong hai năm)
Nhìn chung, năm 2008 so với năm 2000, tỷ giá thực EUR/USD giảm
31,68%, AUD/USD giảm 34,93%, CNY giảm 12,93%, BATH/USD giảm 18,67%...
trong khi đó VND/USD chỉ giảm 13,54%. Tính đến năm 2008, USD đã có quá trình
27
mất giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền trong rổ, đặc biệt nó đã mất giá rất mạnh
so với EUR và AUD. Điều này cho thấy tỷ giá thực giữa USD/VND có thể sẽ thấp
hơn tỷ giá thực đa phương, chỉ số này sẽ được tính ngay sau đây. Hay nói cách khác
mặc dù tiền đồng bị định giá cao so với USD, nhưng do USD bị mất giá mạnh so
với hầu hết các đồng tiền trong rổ nên tiền đồng có thể sẽ bị định giá thấp hơn nếu
so với một rổ tiền.
2.2 Tính tỷ giá thực đa phương (REER)
Phần phân tích trên cho thấy phần nào mức độ định giá cao của tiền đồng so
với rổ tiền tính cho đến năm 2008, nhất là định giá cao so với đồng USD. Tuy
nhiên, những phân tích ở trên chỉ cho thấy những góc nhìn riêng lẻ về giá trị tiền
đồng so với từng đồng tiền, nên rất khó để có thể đánh giá tổng hợp về mức độ định
giá cao hay thấp của tiền đồng so với các đồng tiền trong rổ. Để có cái nhìn tổng
quát hơn về mức độ định giá của tiền đồng so với rổ tiền, tác giả tiến hành tính tỷ
giá thực đa phương. Sau đây, tác giả trình bày phương pháp để tính tỷ giá thực đa
phương.
Chọn năm gốc. Vấn đề chọn năm gốc (năm cơ sở) rất quan trọng, nó sẽ ảnh
hưởng đến kết quả tính tỷ giá thực. Năm gốc có thể chọn một trong các năm 1992,
1999, 2000, 2001. Lý do được đưa ra ở đây là vì tính từ năm 1986 trở lại đây, năm
1992 là năm có thặng dư mậu dịch, việc xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung đạt
nhiều tiến bộ, giá cả nhiều mặt hàng đã theo cơ chế thị trường cạnh tranh, nền kinh
tế ổn định; các năm 1999, 2000, 2001 có tỷ lệ thâm hụt mậu dịch là thấp nhất, tỷ lệ
xuất khẩu trên nhập khẩu lần lượt là 98,3%, 92,6%, 92,7%, chỉ số giá cả các năm
này được xem là rất ổn định, chỉ số giá tháng 12 năm này so với tháng 12 năm trước
rất gần 100.
Tác giả không chọn năm 1992, mặc dù năm này cán cân thanh toán khá cân
bằng, nền kinh tế ổn định vì việc nghiên cứu tỷ giá trong thời gian quá dài sẽ không
sát với thực tế. Vì Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế đang
chuyển đổi, nên cấu trúc nền kinh tế thay đổi rất nhanh và phức tạp, các biến số vĩ
mô thay đổi lớn sẽ rất khó quan sát biến động của tỷ giá. Năm 1999 được chọn là
năm gốc vì năm này cán cân thanh toán của Việt Nam khá cân bằng, cũng trong
28
năm này chính phủ hai lần giảm giá mạnh đồng nội tệ, do đó đã đưa tỷ giá về gần
hơn vùng ngang giá sức mua, hay nói cách khác là tỷ giá hiệu lực thực được xem là
gần như bằng 100. Năm 1999 cũng là năm không quá xa so với hiện tại, việc thu
thập số liệu ít khó khăn hơn do thời gian gần hơn. Một vài nghiên cứu về tỷ giá các
tác giả khác cũng chọn năm 1999 là năm gốc.
Ngoài ra trong thời gian gần đây, các tổ chức tài chính quốc tế khi công bố
số liệu thường chọn năm cơ sở là năm 2000. Xét thấy năm này cũng khá phù hợp
với các tiêu chí đã đề ra như không quá xa hiện tại, cán cân thanh toán khá cân
bằng…, tác giả đã chọn thêm năm cơ sở là năm 2000 khi tính REER do dễ dàng
trong việc thu thập số liệu và có thể đem so sánh hai kết quả tính REER ở hai kỳ
gốc khác nhau xem có gì khác biệt không.
Chọn rổ tiền tệ đặc trưng. Căn cứ vào tỷ trọng thương mại của Việt Nam
và đối tác thương mại, tác giả chọn ra các đồng tiền tham gia “rổ tiền” để tính tỷ giá
thực đa phương (REER) theo nguyên tắc ưu tiên chọn đồng tiền của các đối tác có
tỷ trọng thương mại lớn với Việt Nam. Ngoài ra, các đối tác có sự cạnh tranh trong
xuất khẩu với Việt Nam, các đồng tiền mạnh, các đối tác tiềm năng... cũng được
xem xét trong việc lựa chọn đồng tiền nào tham gia “rổ tiền”.
Đô la Mỹ là đồng tiền hiển nhiên có mặt trong rổ tiền do đồng tiền này là
đồng tiền mạnh nhất thế giới cho tới thời điểm hiện nay.
Đồng Euro cũng là đồng tiền không thể thiếu trong rổ tiền vì nó là một trong
những đồng tiền mạnh nhất trên thế giới và vì khu vực sử dụng đồng Euro có giao
thương rất lớn với Việt Nam, đồng thời chọn hai quốc gia châu Âu làm đại diện là
Pháp và Đức.
Kế đến là đồng yen Nhật cũng là một lựa chọn không tranh cãi, do đây là
đồng tiền của một quốc gia có nền kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới và Nhật cũng
là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Trung Quốc là quốc gia ngoài việc là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, trao đổi
thương mại song phương của Việt Nam với Trung Quốc có tỷ trọng lớn nhất và Việt
Nam luôn chịu tình cảnh nhập siêu lớn nhất với họ. Từ năm 2001 đến 2008 Việt
Nam liên tục nhập siêu với Trung Quốc cứ năm sau lớn hơn năm trước và đến 2008