Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.2 KB, 111 trang )
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Hình 2.9 Hệ thống mở của vận hành dịch vụ
Nguồn: Fitzsimmons & Fitzsimmons, 2001
2.2.
2.2.1.
CÁC MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
SERVQUAL (Parasuraman et al., 1988)
Sự phát triển nhanh chóng của các ngành dịch vụ và sự cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp dịch vụ dẫn tới các nhà cung cấp dịch vụ cần phương thức nhận dạng khoảng
cách trên thị trường để cải thiện chất lượng dịch vụ và giữ khách hàng. Chất lượng
dịch vụ trở thành đề tài nghiên cứu quan trọng vì nó có quan hệ với chi phí, lợi nhuận,
sự thỏa mãn khách hàng, sự giữ chân khách hàng và quảng cáo truyền miệng (Buttle,
1996).
Tuy nhiên, cho đến năm 1985 vẫn chưa có kỹ thuật đo lường nào có thể áp
dụng trên tất cả các ngành dịch vụ để nhận dạng kỳ vọng và cảm nhận của khách hàng.
Ấn tượng của khách hàng về chất lượng dịch vụ dựa trên tổng thể trải nghiệm qua dịch
vụ, bao gồm cả những điều tiềm ẩn, chứ không đơn thuần là kết quả bề ngoài dịch vụ
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
được thực hiện (Fitzsimmons & Fitzsimmons, 2001). Năm 1985, Parasuraman et al.
đưa ra 10 nhân tố của chất lượng dịch vụ.
Bảng 2.14 Các nhân tố của chất lượng dịch vụ
Nhân tố
Diễn giải
1. Sự tin cậy
Phục vụ nhất quán và đáng tin cậy
2. Sự đáp ứng
Sẵn lòng phục vụ
3. Năng lực
Kiến thức và kỹ năng
4. Sự tiếp cận
Dễ dàng liên hệ
5. Sự lịch sự
Sự lịch sự, sự quan tâm và tính thân thiện của
nhân viên
6. Giao tiếp
Cập nhật thông tin và lắng nghe khách hàng
7. Sự đáng tin
Đáng tin, luôn đặt lợi ích khách hàng lên trên
8. Sự an toàn
Không có nguy hiểm và nguy cơ
9. Sự thấu hiểu khách hàng
Hiểu nhu cầu và quan tâm cá nhân khách hàng
10. Tính hữu hình
Các đặc điểm vật lý, cơ sở vật chất
Nguồn: Parasuraman et al. (1985)
Đến năm 1988, Parasuraman et al. công bố thang đo SERVQUAL được rút còn
5 nhân tố từ 10 nhân tố trên, đo lường cảm nhận của khách hàng gồm 22 biến thành
phần (thuộc tính). Thang đo dựa trên khái nhiệm chất lượng được cảm nhận. Zeithaml
(1987) định nghĩa chất lượng cảm nhận là đánh giá của khách hàng về tính vượt trội
hoặc tính tốt nói chung của một thực thể, khác biệt so với chất lượng khách quan của
thực thể đó (Garvin, 1983; Hjorth-Anderson, 1984). Phần lớn các nghiên cứu
(Gronroos, 1982; Lehtinen & Lehtinen, 1982; Parasuraman et al., 1985) nhất trí khẳng
định khái niệm chất lượng dịch vụ bắt nguồn từ sự so sánh điều khách hàng cảm thấy
nhà cung cấp dịch vụ phục vụ cho mình (cảm nhận) với điều khách hàng mong muốn
nhà cung cấp dịch vụ nên làm (kỳ vọng). Dựa trên nghiên cứu này, Parasuraman et al.
(1985) phát triển một mô hình điểm khoảng cách và định nghĩa chất lượng dịch vụ là
khoảng cách giữa cảm nhận và kỳ vọng của khách hàng. Nói cách khác:
SQ= P-E
Với
SQ (Service Quality): điểm khoảng cách chất lượng dịch vụ
P (Perceived): cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
E (Expected): kỳ vọng của khách hàng về chất lượng dịch vụ
Nếu P>E thì chất lượng dịch vụ được đánh giá tích cực (positive
disconfirmation) còn ngược lại là tiêu cực (negaive disconfirmation).
Bảng 2.15 Các nhân tố của SERVQUAL (1988)
Nhân tố
Định nghĩa
Số biến,
thuộc tính
1. Vật chất hữu Bề ngoài vật lý của phòng ốc, trang thiết bị, con 4
hình
người, thiết bị thông tin liên lạc
2. Sự tin cậy
Khả năng thực hiện như đã cam kết
4
3. Sự đảm bảo
Kiến thức, cử chỉ nhã nhặn; khả năng truyền 5
lòng tin và sự tự tin của nhân viên
4. Sự thấu cảm
Chăm sóc và quan tâm từng khách hàng
5. Sự đáp ứng
Sẵn lòng giúp đỡ khách hàng và cung cấp dịch 4
vụ đúng lúc
5
Nguồn: Parasuraman et al. (1988)
Hình 2.10 Mô hình SERVQUAL (Parasuraman et al., 1988)
Nguồn: Parasuraman et al. (1988)
SERVQUAL (Parasuraman et al. 1988, 1991) gồm hai phần. Phần một có 22
biến đo lường kỳ vọng chất lượng trong một lĩnh vực cụ thể nào đó và phần hai gồm
22 biến đo chất lượng dịch vụ cảm nhận của một công ty trong lĩnh vực đó. Điểm số
(khoảng cách) SERVQUAL được định nghĩa là sự sai biệt giữa chất lượng dịch vụ kỳ
vọng và chất lượng dịch vụ cảm nhận. Quá trình cải tiến chất lượng dựa trên khoảng
cách xác định từ mô hình SERVQUAL với giả định ngầm khoảng cách có mức độ tiêu
cực càng cao cần ưu tiên cải thiện (Zeithaml et al., 1993, 1996).
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
2.2.2.
Mô hình Malcolm Baldrige National Quality Program
Giải thưởng Malcolm Baldrige Award của Mỹ bắt đầu từ 1987 được trao hàng
năm cho các doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ dựa trên đánh giá của mô hình Malcolm
Baldrige National Quality Program trên bảy tiêu chí gồm (1) lãnh đạo, (2) hoạch định
chiến lược, (3) tập trung vào khách hàng, thị trường, (4) đo lường, phân tích và quản lý
tri thức, (5) tập trung vào lực lượng lao động, (6) quản lý quá trình, và (7) kết quả hoạt
động.
Hình 2.11 Mô hình chất lượng Malcolm Baldrige National Quality
Nguồn: Criteria for Performance Excellence - Malcolm Baldrige National Quality
Program, 2008
(1) Lãnh đạo: đánh giá cách thức các nhà quản lý cấp cao quản lý tổ chức và
cách tổ chức có trách nhiệm với cộng đồng
(2) Hoạch định chiến lược: đánh giá cách tổ chức xác lập hướng chiến lược và
kế hoạch hoạt động
(3) Tập trung vào khách hàng và thị trường: đánh giá tổ chức xác định yêu
cầu và kỳ vọng về khách hàng, thị trường; xây dựng quan hệ với khách hàng; tìm
kiếm, thỏa mãn và giữ chân khách hàng.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Ba tiêu chí này được xếp cạnh nhau biểu thị sự lãnh đạo để nhấn mạnh đến vai
trò quan trọng của lãnh đạo tập trung vào chiến lược và khách hàng. Lãnh đạo cấp cao
là người hướng dẫn hướng đi và tìm kiếm cơ hội tương lai cho tổ chức.
(4) Đo lường, phân tích và quản lý tri thức: đánh giá cách thức quản lý, sử
dụng hữu hiệu, phân tích, cải thiện dữ liệu và thông tin để hỗ trợ các quá trình chủ chốt
trong tổ chức và hệ thống quản lý hoạt động của tổ chức
(5) Tập trung vào lực lượng lao động: đánh giá cách tổ chức phát huy tiềm
năng của nguồn nhân lực và nguồn nhân lực đóng góp như thế nào đối với mục tiêu
của tổ chức
(6) Quản lý quá trình: đánh giá cách thiết kế, quản lý và cải thiện quá trình sản
xuất/phân phối và các quá trình hỗ trợ
(7) Kết quả: đánh giá thành quả của tổ chức và sự cải thiện của tổ chức trong
các lĩnh vực: thỏa mãn khách hàng; kết quả tài chính, thị trường; nguồn nhân lực; nhà
cung cấp và đối tác; kết quả hoạt động; trách nhiệm với nhà nước và xã hội; so sánh
với đối thủ.
Ba tiêu chí từ 5 đến 7 biểu thị kết quả. Nguồn nhân lực và các quá trình chủ
chốt hoàn thành công việc của tổ chức, từ đó tạo ra kết quả. Tất cả các họat động đều
hướng đến kết quả. Mũi tên ngang trong mô hình biểu thị kết nối giữa ba tiêu chí lãnh
đạo và ba tiêu chí kết quả, đồng thời biểu thị quan hệ trọng tâm giữa Lãnh đạo (tiêu
chí 1) và Kết quả (tiêu chí 7). Các mũi tên hai đầu biểu thị sự phản hồi. Riêng tiêu chí
4 được xem là nền tảng cho tổ chức hoạt động.
Giải thưởng này nhằm công nhận các doanh nghiệp, tổ chức đạt thành tựu trong
chất lượng và kết quả hoạt động cũng như nâng nhận thức cho tổ chức rằng chất lượng
và kết quả hoạt động xuất sắc cũng là một lợi thế cạnh tranh. Các tiêu chí của giải
thưởng được thiết kế nhằm hai mục tiêu: tạo giá trị tốt hơn cho khách hàng và cải thiện
thành quả hoạt động của tổ chức. Đến năm 1999, giải thưởng mở rộng thêm đối tượng
là các tổ chức giáo dục và y tế.
Trong lĩnh vực y tế, các tiêu chí Baldrige được các bệnh viện sử dụng rộng rãi
cho mục đích tự đánh giá (Meyer & Collier, 2001).
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
2.2.3.
EFQM Excellence Model
Giải thưởng European Quality Award (EQA) dựa vào mô hình đánh giá
European Foundation for Quality Management (EFQM) Excellence Model xét trao
cho các tổ chức xuất sắc của Châu Âu. Mô hình được xem là áp dụng của Total
Quality Management (TQM) tại Châu Âu (Westlund, 2001).
EFQM Excellence Model gồm chín nhân tố được chia thành hai nhóm. Nhóm
thực hiện gồm năm nhân tố (lãnh đạo, chính sách và chiến lược, con người, đối tác và
nguồn lực, quá trình) và nhóm kết quả gồm bốn nhân tố (con người, khách hàng, xã
hội, hoạt động). Các nhân tố thực hiện cho biết cách tổ chức vận hành còn các nhân tố
kết quả cho biết thành tựu đạt được của tổ chức hướng về phía những đối tượng có lợi
ích liên quan.
Hình 2.12 Mô hình chất lượng EFQM Excellence Model
Nguồn: EFQM 1999 - 2003
(1) Lãnh đạo: đánh giá ban lãnh đạo phát triển và đạt được sứ mệnh, tầm nhìn
thông qua phát triển các giá trị và hệ thống tổ chức
(2) Chính sách và chiến lược: đánh giá việc thực thi sứ mệnh và tầm nhìn bằng
chiến lược tập trung vào những người có lợi ích liên quan, có tính đến thị
trường và lĩnh vực tổ chức đang hoạt động; đánh giá cách thức các chính sách,
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
kế hoạch, mục tiêu, quá trình được phát triển và triển khai để phục vụ cho chiến
lược
(3) Con người: đánh giá tổ chức quản lý và phát huy tiềm năng của nguồn nhân
lực ở mức độ cá nhân, đội nhóm, tổ chức.
(4) Đối tác và nguồn lực: đánh giá cách thức tổ chức lên kế hoạch và quản lý quan
hệ đối tác bên ngoài, nhà cung cấp và các nguồn lực bên trong để hỗ trợ cho
chính sách, chiến lược và vận hành quá trình hiệu quả
(5) Quá trình: đánh giá cách thức thiết kế, quản lý, cải tiến quá trình để thỏa mãn
và tạo giá trị cho khách hàng và những người có lợi ích liên quan
(6) Kết quả khách hàng: đánh giá cách thức đo lường và đạt kết quả từ khách
hàng
(7) Kết quả con người: đánh giá cách thức đo lường và đạt kết quả từ nguồn nhân
lực
(8) Kết quả xã hội: đánh giá cách thức đo lường và đạt kết quả từ xã hội
(9) Kết quả hoạt động chủ chốt: đánh giá cách thức đo lường và đạt kết quả từ
việc thực thi các yếu tố chủ chốt thuộc chính sách và chiến lược.
Tại Châu Âu, mô hình EFQM được xem là công cụ để các tổ chức tự đánh giá
và tích hợp chiến lược. Các cơ sở y tế Đức đã áp dụng EFQM để tự đánh giá và nhận
dạng điểm mạnh, điểm yếu theo từng nhân tố (Moeller & Sonntag, 2001). Theo đó,
các lĩnh vực cần cải thiện gồm: (1) Nhân viên, (2) Môi trường hỗ trợ cho tổ chức và
(3) Lãnh đạo
2.3.
KHÁI NIỆM SỰ HÀI LÒNG CỦA BỆNH NHÂN
Chăm sóc sức khỏe là sự đáp ứng nhu cầu sinh lý, tâm lý, xã hội của bệnh nhân
(Rose et al., 2004) nhưng 60% đến 89% bệnh nhân không hài lòng với chất lượng dịch
vụ của bệnh viện.
Ngày nay, những thay đổi trong công nghệ và hệ thống y tế đã dẫn đến gia tăng
chi phí các dịch vụ khám chăm sóc sức khỏe và đa dạng cách chẩn đoán, liệu pháp can
thiệp. Chẳng hạn năm 2001, chi tiêu của ngành y tế Mỹ tăng 10% do bệnh nhân yêu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
cầu và mong muốn thêm xét nghiệm chẩn đoán, điều trị y khoa và dược phẩm (Reilly,
2002). Vai trò của bệnh nhân và những người thụ hưởng dịch vụ y tế cũng thay đổi, từ
người thụ hưởng dịch vụ bị động sang chủ động hơn. Bệnh nhân muốn biết nhiều hơn
tình trạng sức khỏe và muốn tham gia vào việc ra quyết định liên quan đến sức khỏe
của mình (Merkouris et al. 1999). Những thay đổi này dẫn tới nhu cầu nghiên cứu sự
hài lòng của bệnh nhân vì Schmidt (2003) cho rằng sự hài lòng của bệnh nhân là dấu
hiệu chỉ dẫn quan trọng nhất cho dịch vụ y tế chất lượng cao và được dùng để đánh giá
và hoạch định hệ thống y tế.
Sự hài lòng của bệnh nhân được định nghĩa là sự kết hợp của trải nghiệm, kỳ
vọng và nhu cầu (Merkouris et al. 1999). Sự hài lòng còn được định nghĩa là đánh giá
chủ quan của bệnh nhân, trên phương diện lý trí và tình cảm dựa trên kết quả so sánh
giữa kỳ vọng được phục vụ và cảm nhận khi được phục vụ thật sự (Johansson et al.
2002). Một định nghĩa khác là sự hài lòng bao gồm ba thành phần: (1) hài lòng về
quan hệ giữa con người với nhau, (2) hài lòng với hệ thống y tế và (3) hài lòng với
thiết bị kỹ thuật (Merkouris et al. 2004). Wallace et al. (1999) xác định ba thành phần
lớn của sự hài lòng (1) chất lượng và số lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, (2) cá nhân
và (3) quan hệ đối tác. Chất lượng và số lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe gồm hai
phần nhỏ (i) năng lực và (ii) môi trường (vệ sinh, ánh sáng, sự thoải mái). Cá nhân bao
gồm các nhân tố như tôn trọng nhu cầu cá nhân, tin cây, riêng tư và chăm nom còn
quan hệ đối tác gồm chia sẻ thông tin, tiếp cận và tham gia quá trình ra quyết định.
Marley et al. (2004) đưa ra mô hình gồm chất lượng kỹ thuật, chất lượng quá
trình, vai trò của lãnh đạo trong việc mang tới sự hài lòng cho bệnh nhân. Nhà lãnh
đạo là nguồn tác động vào chất lượng kỹ thuật (kết quả mà bệnh nhân nhận từ bệnh
viện) và chất lượng quá trình chuyển giao dịch vụ (cách thức bệnh nhân được phục
vụ). Hai loại chất lượng này sau đó đưa đến mức độ hài lòng của bệnh nhân.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Hình 2.13 Mô hình sự hài lòng của bệnh nhân
Nguồn: Marley et al., 2004
Như vậy qua các định nghĩa trên có thể thấy sự hài lòng là kết quả của sự đánh
giá điều bệnh nhân (khách hàng) trải nghiệm và kết quả của dịch vụ cung cấp (Pascoe,
1983). Vì vậy chất lượng dịch vụ cảm nhận là một khái niệm liên quan đến nhận thức
còn sự hài lòng là phản ứng có tính tình cảm xảy ra khi khách hàng trải qua một quá
trình dịch vụ nào đó. Sự phân biệt giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng cho thấy
chúng có thể mang mối quan hệ nhân quả, trong đó chất lượng dịch vụ là tiền tố của sự
hài lòng. Thực tế, các nghiên cứu tại Bắc Mỹ và các nơi khác ủng hộ quan hệ này
(Gottlieb et al., 1994; Brady & Robertson, 2001).
Về đo lường chất lượng dịch vụ y tế, có hai cách tiếp cận. Cách truyền thống là
nhấn mạnh đến kết quả của dịch vụ y tế từ cách nhìn của người cung cấp (cái được
cung cấp, what). Cách thứ hai theo hướng tiếp thị dịch vụ, nhấn mạnh đến quá trình
chăm sóc y tế theo cách nhìn của bệnh nhân (cách thức dịch vụ được cung cấp, how).
Dù kết quả của chăm sóc y tế có vẻ hợp lý được chọn để đo lường nhưng nó không dễ
đo, nhất là có độ trễ giữa thời gian cung cấp dịch vụ và thời gian nhận biết được kết
quả nên không xác định được khi nào nên tiến hành đánh giá. Ngoài ra bệnh nhân
không đủ khả năng để đánh giá các khía cạnh kỹ thuật của dịch vụ y tế và hậu quả
khác của dịch vụ (Newcome, 1997). Vì vậy nhiều nghiên cứu về dịch vụ y tế đi theo
hướng thứ hai, sử dụng thang đo SERVQUAL (Parasuraman et al., 1985, 1988).
2.4.
ĐÁNH GIÁ THANG ĐO SERVQUAL
Từ khi ra đời, SERVQUAL được ứng dụng rộng rãi và được đánh giá với nhiều
kết quả trái ngược nhau trên góc độ lý thuyết và thực tiễn. Buttle (1996) tổng kết các
đánh giá SERVQUAL được tóm tắt trong Bảng 2.3.
2.4.1.
Đánh giá SERVQUAL trên góc độ lý thuyết
Trên góc độ lý thuyết thứ nhất, theo Andersson (1992) SERVQUAL không
dựa trên các nghiên cứu khoa học xã hội, đặc biệt là lý thuyết kinh tế, thống kê, tâm lý
học và Parasuraman et al. đã từ bỏ nguyên tắc tiếp nối và suy diễn trong khoa học.
Buttle (1996) liệt kê các phê bình khác như (1) kỹ thuật quản lý do Parasuraman et al.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
(1988) đề xuất không tính đến chi phí cải tiến chất lượng dịch vụ mà đưa ra giả định
rằng doanh thu biên của cải thiện chất lượng dịch vụ luôn lớn hơn chi phí biên; (2)
Parasuraman et al. không dựa trên lý thuyết tâm lý học cảm nhận; (3) SERVQUAL
không trả lời được câu hỏi sự cải thiện giá trị khách hàng là một hàm tuyến tính hay
phi tuyến.
Thứ hai, các phê bình SERVQUAL tập trung việc sử dụng điểm khoảng cách
để đo chất lượng dịch vụ (Babakus & Mangold, 1992; Cronin & Taylor, 1992; Teas,
1994; Lee et al., 2000). Babakus & Boller (1992) phát hiện khoảng cách cũng là một
cách đo chất lượng dịch vụ nhưng nghi ngờ điểm số khác biệt giữa cảm nhận và kỳ
vọng cung cấp thêm thông tin ngoài những gì đã được đánh giá trong các yếu tố cảm
nhận của SERVQUAL. Hai ông cho rằng nhân tố áp đảo trong điểm khoảng cách là
điểm của cảm nhận chất lượng dịch vụ vì nói chung người trả lời thường cho điểm cao
kỳ vọng chất lượng dịch vụ. Thật vậy, trong phiên bản thử nghiệm 1988 của
Parasuraman et al., phần lớn các điểm kỳ vọng đạt trên sáu điểm trong thang đo bảy
điểm còn trung bình kỳ vọng trong phiên bản 1991 là 6.22.
Về khái niệm kỳ vọng, Iacobucci et al. (1994) cho rằng kỳ vọng có thể không
tồn tại hoặc không được hình thành một cách rõ ràng để giữ vai trò là tiêu chuẩn đánh
giá một kinh nghiệm sử dụng dịch vụ. Sự kỳ vọng có thể được hình thành đồng thời
khi dịch vụ đang được chuyển giao (Buttle, 1996). Iacobucci et al. (1994) đề xuất
dùng tiêu chuẩn hơn là kỳ vọng để hỏi khách hàng. SERVQUAL không hỏi về các tiêu
chuẩn tuyệt đối mà chỉ là đánh giá chất lượng dịch vụ dựa trên cơ bản rằng kỳ vọng
của người được hỏi có được đáp ứng không. Iacobucci et al. (1994) tìm ra bằng chứng
rằng các tiêu chuẩn tuyệt đối thật sự quan trọng trong xác định việc đánh giá chất
lượng dịch vụ và sự thỏa mãn khách hàng. Năm 1994, Cronin & Taylor thừa nhận các
nhà nghiên cứu có thể suy đoán sự đánh giá của khách hàng thông qua trung bình số
học của điểm khoảng cách P-E nhưng chính cảm nhận của khách hàng ảnh hưởng đến
hành vi của họ và trước đó (1992) đưa ra thang đo SERVPERF cũng gồm 22 biến
nhưng chỉ đo cảm nhận. Boulding et al.(1993) bác bỏ giá trị của mô hình điểm khoảng
cách và cho rằng chất lượng dịch vụ chỉ bị cảm nhận ảnh hưởng.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
SERVQUAL ngầm định rằng đánh giá tích cực và tiêu cực phân phối đối xứng
nhưng theo Hardie et al. (1992), người tiêu dùng thường phê bình dịch vụ phục vụ xấu
mà không khen dịch vụ phục vụ tốt quá mức mong đợi. Một nghiên cứu của Mittal et
al. (1998) đưa ra ba tình huống khó xử lý đối với các tổ chức có mục tiêu tối đa thỏa
mãn khách hàng thông qua cải thiện hoạt động dịch vụ khi sử dụng SERVQUAL là:
•
Một thuộc tính bị đánh giá tiêu cực không thể được khỏa lấp các thuộc
tính cùng chung nhân tố được đánh giá tích cực vì tác hại của chất lượng cảm nhận
tiêu cực lớn hơn so với đóng góp của chất lượng tích cực. Nói cách khác, nếu trong
cùng một nhân tố, một thuộc tính bị cảm nhận tiêu cực thì nhân tố đó có nguy cơ bị
cảm nhận tiêu cực dù các các thuộc tính khác được cảm nhận tích cực.
•
Sự cải thiện những thuộc tính mà qua khảo sát khách hàng, đó là những
thuộc tính quan trọng, lại không tạo ra những cải thiện tương ứng trong dịch vụ
khách hàng.
•
Sự giảm mức độ nhỏ trong một số thuộc tính dịch vụ lại dẫn tới sự giảm
đáng kể trong đánh giá sự thỏa mãn tổng thể.
Cronin & Taylor (1992) đã thử nghiệm thang đo SERVPERF chỉ gồm 22 biến
cảm nhận đánh giá chất lượng dịch vụ dựa trên kết quả thực hiện ở bốn ngành ngân
hàng, diệt sâu bọ, giặt quần áo và thức ăn nhanh. Nhóm thấy rằng cách đo này giải
thích nhiều sự biến thiên trong đo lường dịch vụ tổng thể hơn SERVQUAL.
Thứ ba, SERVQUAL bị phê bình vì quá chú trọng đến quá trình chuyển giao
dịch vụ hơn là kết quả của dịch vụ. Gronroos (1982) xác định ba cấu thành của chất
lượng dịch vụ là kỹ thuật (đầu ra, "cái gì"), chức năng (quá trình,"như thế nào") và
danh tiếng (hình ảnh của một tổ chức). SERVQUAL bị chỉ trích vì chỉ tập trung vào
quá trình cung cấp dịch vụ (chức năng) hơn là kết quả kỹ thuật của dịch vụ mang lại
(Mangold & Babakus 1991; Cronin & Taylor 1992; Richard & Allaway 1993). Vì vậy,
SERVQUAL không thể đánh giá chính xác chất lượng dịch vụ (Mangold & Babakus
(1991). Richard & Allaway (1991) tìm ra rằng đo lường hai khía cạnh kỹ thuật và chức
năng giải thích nhiều sự biến thiên trong hành vi lựa chọn hơn là chỉ đo lường chức
năng. Nhưng Higgins et al. (1991) biện hộ rằng những đo lường của chất lượng kỹ
thuật nằm trong các yếu tố tính tin cậy, năng lực và tính đảm bảo của SERVQUAL.