Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 69 trang )
Hoạt động sản xuất và chế biến tinh bột sắn đang diễn ra nhanh và mạnh ở rất
nhiều quốc gia trên thế giới, có nhiều loại công nghệ chế biến tinh bột sắn đã ra
đời đem lại hiệu quả cao trong sản xuất tinh bột sắn. Thái Lan là nước đứng đầu
thế giới về xuất khẩu các sản phẩm từ sắn và có nhiều tập đoàn và công ty sản
xuất thiết bị chế biến sắn. Nhìn chung, quy trình công nghệ sản xuất tinh bột sắn
của các công ty Thái Lan về cơ bản đều giống nhau. Sắn củ nguyên liệu được
bóc vỏ, làm sạch, băm và nghiền nhỏ để phá vỡ cấu trúc tinh bột (ở công đoạn
nghiền và trích ly có bổ sung H2SO3 để chống biến màu tinh bột) sau đó sang
công đoạn trích lý, tách xơ. Sữa tinh bột được chuyển vào thiết bị ly tâm rồi đem
sấy khô bằng thiết bị sấy phun. Tinh bột từ công đoạn sấy khô được làm nguội
và đóng bao để chuyển sang kho chứa thành phẩm (hình 2.1).
Ưu điểm của công nghệ Thái Lan là giai đoạn trích ly, chiết suất được thực
hiện lặp lại nên tỷ lệ thu hồi tinh bột cao, lượng tinh bột thải ra theo bã và nước
thải giảm đáng kể. Mặt khác, nước thải từ ly tâm tách nước được tuần hoàn lại
quá trình trích ly tách xơ, đồng thời nước sau phân ly bột được tái sử dụng hoàn
toàn để rửa củ nên giảm một lượng đáng kể định mức sử dụng nước. Như vậy
toàn bộ quy trình có một dòng thải chính là dòng sau rửa củ. [5,9,55]
Trung Quốc không phải là nước trồng sắn nhưng là nước có nhu cầu tinh bột
sắn lớn nhất thế giới.
Ưu điểm chính công nghệ nước này là nguyên liệu có thể là củ sắn tươi và cả
sắn lỏt khụ, khâu tẩy trắng dùng SO2 với hàm lượng nhỏ. Dây chuyền công nghệ
sản xuất tinh bột sắn của Trung Quốc có giá thành thấp nên tương đối phổ biến
ở Việt Nam. [5,9]
4
dụng
Vỏ, tạp chất
Rửa củ, bóc vỏ
Nước thải
Nước
H2SO3
Băm nhỏ
Bột thô
Nước tuần hoàn, tái sử
Sắn củ tươi
Nghiền
Bã sắn
Trích ly, tách xơ
Nước thải
Phân ly (tinh lọc)
Ly tâm tách nước
Khí nóng
Sấy khô
Khí thải
Làm nguội
Hình 2.1. Công nghệ sản xuất tinh bột sắn ở Thái Lan kèm theo dòng thải
Đóng bao
1.2. Sản xuất và chế biến tinh bột sắn ở Việt Nam
Thành
Việt Nam là nước xuất khẩu tinh bột sắn đứng thứ 3 trên thế giới, sau
phẩm
Indonesia và Thái Lan. Năm 2006, diện tích đất trồng sắn đạt 475.000 ha, sản
lượng tinh bột sắn đạt 7.714.000 tấn. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
là Trung Quốc, Đài Loan. Cùng với diện tích sắn được mở rộng, sản lượng
cũng như năng suất tinh bột sắn được sản xuất cũng tăng lên theo thời gian.
Hình 1 mô tả tốc độ tăng trưởng của diện tích trồng sắn cũng như sản lượng
5
tinh bột sắn của Việt nam. Theo hình 1, tốc độ tăng trưởng của sản lượng tinh
bột sắn cao hơn gấp nhiều lần so với sự gia tăng của diện tích trồng sắn.
Hình 2.2. Biểu đồ tăng trưởng diện tích, sản lượng và năng suất tinh bột sắn
ở Việt nam [1]
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực và làm thức ăn gia súc quan trọng chỉ sau
lúa và ngô. Năm 2008, diện tích trồng sắn đạt 556 nghìn ha chỉ đứng sau cây lúa
và ngô. Sản lượng đạt gần 9,39 triệu tấn chỉ đứng sau cây lúa, năng suất đạt 16,9
tấn/ha cao nhất trong các cây lương thực. [54]
Cây sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ nông dân nghèo do sắn dễ
trồng, ớt kộn đất, vốn đầu tư thấp phù hợp kinh tế nông hộ và điều kiện sinh thái
môi trường ở Việt Nam. Sắn ở Việt Nam chủ yếu dùng để sản xuất thương phẩm
(48,6%), kế đến làm thức ăn gia súc (22,4%), chế biến thủ công (16,8%), chỉ có
12,2% tiêu thụ tươi. [29,37,54]
Sản xuất và chế biến sắn ở Việt Nam trong những năm gần đây có bước tiến
đáng kể, cụ thể:
6
Diện tích trồng sắn cả nước năm 2009 đạt 560,4 nghìn ha, tăng mạnh so với
mức 425,5 ha năm 2005 và tăng 2,7 nghìn ha so với năm 2008. Vượt 13 nghìn
ha so với quy hoạch phát triển sắn tới năm 2010 phân bố tập trung vào các khu
vực ven biển miền Trung, miền Đông Nam bộ và miền núi phía Bắc. [54;56]
Sản lượng sắn năm 2009 đạt 9,445 triệu tấn, cao hơn năm 2008 khoảng 0,20,4 triệu tấn nhưng tăng 1,4 lần so với năm 2005. Năm 2009, khu vực có sản
lượng lớn nhất và đạt năng suất lớn nhất là miền Đông Nam Bộ (khoảng 23,5
tấn/ha), kế đến là vùng ven biển miền Trung và cao nguyên (khoảng 16-16,5
tấn/ha). Năng suất trung bình cả nước cũng tăng từ 15,35 tấn/ha năm 2005 lên
16,9 tấn/ha năm 2008, cao hơn năng suất trung bình của thế giới (12,2 tấn/ha)
nhưng vẫn thấp so với Ấn Độ (31,4 tấn/ha) và Thái Lan (21,1 tấn/ha). [54;56]
Bảng 1.1. Sản lượng tinh bột sắn các địa phương ở Việt Nam năm 2010 [30;36]
Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Địa phương
Yên Bái
Thái Nguyên
Hoà Bình
Ninh Bình
Thanh Hoá
Nghệ An
Hà Tĩnh
Quảng Bình
T.T. Huế
Quản Nam
Quảng Ngãi
Quảng Trị
nhà
máy
3
1
1
1
1
3
1
2
2
2
2
1
Số
Sản lượng
TT
(tấn/ngày)
350
80
100
90
80
160
80
120
150
270
225
70
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Địa phương
Bình Định
Phú Yên
Kon Tum
Đắk Lắk
Đắk Nông
Gia Lai
Ninh Thuận
Bình Thuận
Tây Ninh
Bình Phước
Bình Dương
Đồng Nai
nhà
máy
2
2
3
6
2
2
1
3
10
5
2
3
Sản lượng
(tấn/ngày)
310
210
330
570
150
200
80
850
910
1.000
140
420
Về chế biến, hiện nước ta có trên 60 nhà máy chế biến tinh bột sắn quy mô
công nghiệp phân bố trên 24 tỉnh thành cả nước (bảng 1) với tổng công suất gần
7 nghìn tấn sản phẩm/ngày (tương ứng với gần 28-35 nghìn tấn củ sắn
tươi/ngày), số nhà máy tăng gấp đôi và công suất tăng gấp 3 so với 5 năm trước.
7
Ngoài ra, cũn có những cơ sở chế biến nhỏ lẻ và làng nghề nằm rải rác ở các địa
phương. Cùng với sản lượng sắn củ lớn nhất, khu vực Đông Nam Bộ cũng có
năng suất và số lượng nhà máy sản xuất TBS lớn nhất cả nước. Trong đó, Tây
Ninh có nhiều nhà máy sản xuất TBS nhất (10 nhà máy) và Bình Phước là tỉnh
có năng suất lớn nhất (1.000 tấn/ngày). Ở khu vực phía Bắc thỡ Yên Bỏi là tỉnh
có sản lượng sản xuất tinh bột sắn lớn nhất (350 tấn/ngày). [30;36]
Tuy nhiên, sự tăng trưởng mạnh mẽ trong sản xuất và xuất khẩu sắn cũng
mang lại những quan ngại không nhỏ, nhất là nguy cơ tái diễn tình trạng phát
triển ồ ạt diện tích trồng sắn trong cả nước, vừa gây xói mòn đất vừa ảnh
hưởng bất lợi đến giá cả thị trường. Hơn nữa, với số nhà máy và cơ sở chế
biến sắn tăng nhanh đã và sẽ tạo ra một lượng chất thải khổng lồ, gây tác
động không nhỏ đến môi trường ở nhiều vùng nông thôn, nhất là các tỉnh có
diện tích trồng sắn lớn như Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai và một số tỉnh ở
khu vực phía Bắc. [58,56].
Việt Nam hiện tồn tại 3 loại quy mô sản xuất tinh bột sắn điển hình sau: [1]
Qui mô nhỏ (hộ và liên hộ): Đây là quy mô có công suất 0,5 - 10 tấn tinh
bột sản phẩm/ ngày. Số cơ sở chế biến sắn quy mô nhỏ chiếm 70 - 74%. Công
nghệ thủ công, thiết bị tự tạo hoặc do các cơ sở cơ khí địa phương chế tạo. Hiệu
suất thu hồi và chất lượng tinh bột sắn không cao.
Qui mô vừa: Đây là các doanh nghiệp có công suất dưới 50 tấn tinh bột sản
phẩm/ ngày. Số cơ sở chế biến sắn quy mô vừa chiếm 16- 20%. Đa phần các cơ
sở đều sử dụng thiết bị chế tạo trong nước nhưng có khả năng tạo ra sản phẩm
có chất lượng không thua kém các cơ sở nhập thiết bị của nước ngoài.
Qui mô lớn: Nhóm này gồm các doanh nghiệp có công suất trên 50 tấn
tinh bột sản phẩm/ ngày. Số cơ sở chế biến sắn quy mô lớn chiếm khoảng
10% tổng số các cơ sở chế biến cả nước với công nghệ, thiết bị nhập từ Châu
Âu, Trung Quốc, Thái Lan. Đó là công nghệ tiên tiến hơn, có hiệu suất thu
8
hồi sản phẩm cao hơn, đạt chất lượng sản phẩm cao hơn, và sử dụng ít nước
hơn so với công nghệ trong nước. Tới nay cả nước đó có trờn 60 nhà máy chế
biến tinh bột sắn cả nước ở qui mô lớn, công suất 50 - 200 tấn tinh bột sắn/
ngày và trên 4.000 cơ sở chế biến thủ công. Hiện tại, tổng công suất của các
nhà máy chế biến sắn qui mô công nghiệp đã và đang xây dựng có khả năng
chế biến được 40% sản lượng sắn cả nước.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, khoảng 40 - 45% sản lượng sắn dành
cho chế biến quy mô lớn, hay còn gọi là quy mô công nghiệp, 40 - 45% sản
lượng sắn dành cho chế biến tinh bột ở qui mô nhỏ và vừa, dùng để sản xuất các
sản phẩm sắn khô, chế biến thức ăn chăn nuôi và 10 - 15% dùng cho ăn tươi và
các nhu cầu khác.
Qui trình sản xuất tinh bột sắn ở Việt Nam gồm 3 loại hình công nghệ
chính. Đối với qui mô công nghiệp chủ yếu sử dụng công nghệ, thiết bị của
Trung Quốc và Thái Lan vì có giá thành và qui trình vận hành phù hợp với
điều kiện Việt Nam. Các nhà máy phân bố rải rác ở vùng núi Tây Bắc, Bắc
Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tõy Nguyên. Qui mô làng nghề tập trung chủ
yếu ở một số tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long
với công nghệ và thiết bị nhỏ lẻ, không đồng bộ.
+ Chế biến tinh bột sắn theo phương pháp thủ công: Củ sắn mua về
được rửa bằng tay và gọt vỏ bằng dao rồi nạo thủ công trên một bàn
nạo/mài trên tấm thiếc hoặc sắt mềm có đục lỗ tạo gờ sắc một bên. Bột sau
khi mài được đưa vào một tấm vải lọc buộc bốn góc và rửa bằng vòi nước.
Xơ sau khi rửa được vắt khô. Sữa bột thu được chứa trong xụ/thựng chứa
để chờ tinh bột lắng xuống. Thay nước nhiều lần để loại bỏ nhựa, tạp chất
và HCN. Bột ướt vớt lên khay hoặc vắt qua vải lọc để tách nước rồi được
sấy khô tự nhiên. [19,9,35]
9
+ Chế biến tinh bột sắn theo phương pháp bán cơ giới: Trong quy trình
này, việc gọt vỏ thường vẫn được tiến hành thủ công. Quá trình nạo/mài được
tiến hành bằng máy mài. Lực để quay trống được truyền qua trục động cơ
điện và dây curoa. Trống có phủ tấm kim loại đục lỗ được quay trong một
hộp mỏy có gắn phễu nạp củ phía trên và bột sau khi mài được chảy xuống
dưới. Quá trình mài được bổ sung một lượng nhỏ nước. Lượng tinh bột được
giải phóng và hoà tan nhờ cách làm này có thể đạt hiệu suất 70 - 90%. Bột
nhão thu được qua sàng lọc thô, lọc mịn và lọc tinh. Có thể bổ sung nước
trong khi tỏch cỏc tạp chất và bã. Dịch thu được sẽ qua giai đoạn lắng để tách
nước. Lắng được tiến hành trong bể lắng hoặc bàn lắng (lắng trọng lực). Quá
trình lắng có thể được bổ sung hóa chất giúp lắng nhanh hoặc tẩy trắng. Tinh
bột được tách ra bằng tay. Sấy khô tinh bột bằng phương pháp tự nhiên hoặc
cưỡng bức. [19,9,35]
+ Chế biến tinh bột sắn theo phương pháp hiện đại: Yếu tố quan trọng
nhất trong sản xuất TBS chất lượng cao là toàn bộ quá trình chế biến, từ khi
tiếp nhận củ đến khi sấy hoàn thiện sản phẩm phải được tiến hành trong thời
gian ngắn nhất có thể được để giảm thiểu quá trình oxy hoá, biến đổi hàm
lượng tinh bột sau thu hoạch và trong chế biến. TBS được chế biến từ nguyên
liệu là củ tươi hoặc khô (sắn củ, sắn lát), với các quy mô và trình độ công
nghệ khác nhau. [19,9,35]
10
Củ sắn tươi
Nước, năng
lượng
Làm sạch và
tách vỏ
- Vỏ, đất cát
- Nước thải
Băm và mài củ
S, năng
lượng và
nước
Nước, năng
lượng
- Đầu củ
- Xơ sắn
Tẩy màu và ly
tâm tách bã
- Nước thải
- Bã thải sau
CBTBS*
Thu hồi tinh bột
khô
Nước thải
Thu hồi tinh bột
tinh
Năng lượng,
bao gói
Đóng gói và
hoàn thiện
Nhiệt và
bao gói
Hình 2.3. Quy trình sản xuất tinh bột sắn ở Việt Nam
2. Chất thải rắn trong sản xuất tinh bột sắn
Chất thải rắn trong sản xuất tinh bột gồm vỏ và bã của sắn củ, dong củ, có
lẫn cả tạp cát sạn. Vỏ lụa của sắn chứa chủ yếu là pectin, tinh bột và xơ. Các
chất thải rắn phát sinh chủ yếu từ công đoạn rửa củ, bóc vỏ và tỏch bó.
2.1. Nguồn phát sinh và tải lượng
Chất thải rắn từ quá trình sản xuất tinh bột sắn phát sinh chủ yếu từ công
đoạn rửa củ, bóc vỏ và tỏch bó gồm các loại sau [19,46,55].
11
- Vỏ, tạp chất (công đoạn rửa củ, bóc vỏ): Chiếm 5% khối lượng củ sắn tươi
- Bã, xơ vụn, vỏ lụa, hạt tinh bột (công đoạn tỏch bó): Loại chất thải rắn này
thường chiếm khoảng 15-20% lượng củ sắn tươi.
- Xỉ than đốt lò: Lượng than sử dụng trong chế biến tinh bột sắn từ củ sắn
tươi vào khoảng 0,6-0,8 tấn/tấn sản phẩm và lượng xỉ than tạo thành vào khoảng
0,2-0,3 tấn/tấn than cám.
- Rác thải sinh hoạt: Bao bì, chất thải rắn từ nguyên liệu như gốc, cuống sắn,
nguyên liệu hư hỏng…
Cân bằng vật chất (phần chất rắn) trong sản xuất tinh bột sắn được mô tả
như sau:
Sắn củ tươi
1T (100%)
Theo nước
thải 0,05T
(5%)
Vỏ, cát, sạn
0,05T (5%)
Bột nghiền
0,95T (95%)
Bã sắn
0,4T (40%)
Tinh bột ẩm 73-80%
0,5T (50%)
Hình 2.4. Cân bằng vật chất trong sản xuất tinh bột sắn [64]
Cân bằng vật chất cho thấy 1 tấn củ sắn tươi phát sinh gần 0,45 tấn chất thải
rắn. Với sản lượng của 61 cở sở sản xuất tinh bột sắn đạt gần 7.000 tấn tinh
bột/ngày thì lượng chất thải rắn phát sinh rất lớn và ước tính như sau:
-Định mức tiêu thụ nguyên liệu khoảng 4-4,5 tấn/tấn sản phẩm nên lượng củ
sắn tươi dùng trong ngày hơn 28.000 tấn củ sắn tươi/ngày.
12
-Lượng chất thải rắn phát sinh khoảng: 0,45x28.000 tấn/ngày=12.600
tấn/ngày.
-Mỗi năm các nhà máy sản xuất từ 5-6 thỏng/năm (150-180 ngày/năm):
Lượng chất thải rắn phát sinh hàng năm khoảng 1,89-2,27 triệu tấn.
2.2. Đặc trưng chất thải rắn
Bã thải từ công đoạn tỏch bó là nguồn chất thải rắn gây ô nhiễm chính trong
sản xuất tinh bột sắn. Đặc biệt, bã xơ có hàm lượng nước rất cao lên tới 88,990%, hàm lượng tinh bột và chất khô thấp nên gây khó khăn cho việc bảo quản
và làm giảm hiệu quả tái sử dụng bã, mặt khác bó cũn chứa chất hữu cơ dễ
phân huỷ gây mùi khó chịu. Nếu không xử lý kịp thời sẽ gây ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động. [19,9]
Bảng 2.2. Thành phần của bã sắn tươi [19]
TT
Thành phần
Đơn vị
Bã sẵn
1
pH
6,67
2
Nước
%
88,9
3
Tinh bột
%
6,2
4
Nts
%
0,013
5
Pts
%
0,026
Chất thải rắn từ quá trình sản xuất tinh bột sắn gồm vỏ củ, cát, sạn, bó…Đối
với các cơ sở sản xuất ở làng nghề, việc xử lý bã thải gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù đó có biện pháp tích cực trong giải quyết vấn đề chất thải rắn song do
sản xuất nhỏ, cùng với ý thức người dân chưa cao dẫn đến ô nhiễm môi trường
do bã thải là đáng kể. Bã thải chất đống trên đường đi, thậm chí nhiều khi còn
được xả thẳng cùng với nước thải. Nếu không được thu gom và xử lý kịp thời,
nhất là vào mùa hè khi nhiệt độ cao, các chất hữu cơ trong bã thải bị phân huỷ
13
gây mùi khó chịu, làm ô nhiễm môi trường không khí, ảnh hưởng xấu tới sức
khoẻ người dân. Về mùa mưa, cùng với đất cát và phương tiện giao thông, bã
thải góp phần làm cho đường xá trở nên lầy lội, gây khó khăn trong việc đi lại
và lưu thông hàng hóa [9,50].
Xơ và bã sắn được thu nhận sau khi đã lọc hết tinh bột. Loại chất thải
rắn này thường chiếm 15 - 20 % lượng sắn tươi, gây ô nhiễm môi trường nếu
không được xử lý kịp thời. Bã thải rắn của ngành sản xuất tinh bột sắn thường
được các doanh nghiệp sản xuất tận dụng làm sản phẩm phụ dưới dạng thức ăn
gia súc. Nguồn thu từ sản phẩm phụ này là không đáng kể, cần có các biện
pháp sử dụng và quản lý bã thải rắn hiệu quả hơn.
Chất thải rắn của tinh bột sắn thường chứa chủ yếu là xenluloza, tinh bột,
HCN, những chất này nếu không được xử lý thì quá trình phân hủy tự nhiên sẽ
sinh ra các chất như khí H2S, CH4, NH3…gõy mùi hôi thối và điều này dẫn đến
một số nhà máy chế biến tinh bột sắn bị đình chỉ sản xuất như Nhà máy chế biến
tinh bột sắn Hà Tĩnh (Công ty CP hữu hạn Vedan Việt Nam) và nhà máy tinh
bột sắn Thanh Chương (Nghệ An).
3. Các phương pháp xử lý chất thải rắn sau chế biến tinh bột sắn
Hoạt động chế biến tinh bột sắn thải ra nước thải và chất thải rắn với lượng
lớn đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường. Nước thải từ hoạt động sản xuất có
thể được xử lý bằng nhiều phương pháp như bể Aroten, UASB… tuy nhiên chất
thải rắn của hoạt động sản xuất này ở nước ta hiện nay chưa có nhiều phương
pháp xử lý thông thường vẫn là sấy khô, chôn lấp…
Ở các nhà máy lớn vỏ củ và các tạp chất từ công đoạn rửa - bóc vỏ thường
được thiết kế khu chôn lấp riêng trong khuôn viên nhà máy. Bã sắn từ công đoạn
trích ly chiết suất của hầu hết các nhà máy đều ký hợp đồng bán cho các cơ sở
sản xuất thức ăn gia súc [9,50].
14