Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 69 trang )
3.1. Biện pháp sấy khô bã sắn
Cho tới nay, trên thế giới và trong nước chưa có tài liệu nào nói về công
nghệ xử lý chất thải từ quá trình chế biến sắn để có thể áp dụng trực tiếp giải
quyết ô nhiễm tại các làng nghề ở Việt Nam. Ở Thái Lan, nơi có sản lượng sắn
được chế biến nhiều nhất thế giới cũng chỉ bó hẹp trong việc sử dụng bã sắn ở
dạng phơi khô làm thức ăn gia súc.
Hiện nay, đa phần các cơ sở sản xuất đều đem bã sắn đi sấy khô. Tuy nhiên
việc sấy rất tốn kém do bã không được vắt đến độ ẩm phù hợp. Một số cơ sở chế
biến nhỏ vắt bã sơ bộ rồi phơi 5 – 7 ngày nắng vào mùa khô, hoặc 10 - 15 ngày
vào mùa mưa để bỏn bó khụ cho cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. Đối với các hộ
sản xuất nhỏ thì có thể sử dụng cách làm thủ công này còn đối với các doanh
nghiệp có quy mô sản xuất lớn thì phương pháp này không mấy hiệu quả, do đó
để tăng hiệu quả của biện pháp này các nhà khoa học đã nghiên cứu ra máy máy
vắt bã sắn VBS-3 và hệ thống sấy tĩnh SHG-4 [52].
Lựa chọn nguyên lý, thiết kế, chế tạo máy vắt bã sắn.
Phân tích thành phần của bã sắn và nguyên lý làm việc của một số máy vắt,
đã tiến hành thử nghiệm vắt bã sắn trên một số thiết bị như: máy ly tâm, máy ép
trục vớt có lưới lọc, máy ép trục cán, máy ép dạng piston-xilanh lọc, dàn thúi
nghiệm vắt ép băng tải lọc. Kết quả cho thấy hầu hết các máy ly tâm và ép đều
không có hiệu quả với bã sắn. Với dàn thí nghiệm ép băng tải lọc, bã được ép
thành giải băng liên tục, độ ẩm sau vắt hầu như không phụ thuộc vào độ ẩm ban
đầu và đạt 57 2% đảm bảo yêu cầu cho phơi sấy tiếp theo nên nguyên lý ép
băng tải lọc được chọn để thiết kế máy vắt bã sắn.
Máy vắt bã sắn VBS-3 được thiết kế có năng suất 3 tấn/giờ, đường kính
cũng như chiều dài tang trống ép bọc cao su là 500 mm, công suất lắp đặt 1,1
kW.
15
Lựa chọn nguyên lý, thiết kế, chế tạo hệ thống thiết bị sấy bã sắn
Phối hợp với các cơ sở chế biến làm khô bó trờn nhiều thiết bị: phơi nắng,
sấy tĩnh, sấy thùng quay và sấy khí động nhằm lựa chọn công nghệ và thiết bị
sấy phù hợp.
Phơi nắng bã sau vắt với mật độ khoảng 25 – 40 kg/m 2, thời gian để giảm
ẩm từ 55 - 58% xuống 14 - 15% là 3 ngày. Sấy trên máy sấy tĩnh SHG-4 cho
thời gian sấy rút ngắn hơn 3 lần so với phơi nắng và giá thành sấy khoảng 120
đ/kg bó khụ. Sấy trên máy sấy thùng quay cho năng suất cao, thời gian sấy
nhanh (1 giờ), độ ẩm không đồng đều, giá thành cao (250 – 300 đ/kg bó khụ).
Quạt sấy của giai đoạn 1 và 2 có lưu lượng 7.000, 5.000 m3/h, áp lực 350,
300 mmH2O, và công suất 7,5 và 5,0 kW tương ứng. Cả hai giai đoạn, chiều dài
và đường kính của ống sấy 1 là L1 = 11 m, d = 350 mm, và của ống sấy 2 là L 2 =
10 m, D = 1000 mm. [3]
Các kết quả thực nghiệm cho thấy bã sắn thải ra từ quá trình chế biến tinh
bột sắn cần được xử lý theo phương pháp làm khô để tận dụng làm thức ăn gia
súc. Làm khô bã sắn cần qua 2 giai đoạn: bằng máy vắt ép băng tải lọc để giảm
nhanh lượng nước trong bó, giỳp giai đoạn sấy diễn ra nhanh hơn.
Hình 2.5. Sơ đồ quy trình xử lý bã sắn [52]
16
+ Ưu điểm: Có thể xử lý được một lượng lớn bã thải tinh bột sắn, dễ vận
hành.
+ Nhược điểm: Phương pháp này có nhược điểm là tiêu tốn năng lượng
trong quá trình vận hành, tốn kinh phí cho thiết kế và vận hành. Muốn sử dụng
vào mục đích khác thì phải xử lý tiếp.
3.2. Biện pháp sinh học
Công nghệ sinh học hiện nay được áp dụng trong nhiều lĩnh vực của cuộc
sống, và đem lại hiệu quả cao. Biện pháp sinh học được xem là thân thiện với
môi trường, và giải quyết được triệt để vấn đề chất thải rắn của hoạt động sản
xuất tinh bột sắn.
Trên thực tế thì tại các hộ sản xuất quy mô nhỏ thì chất thải rắn chủ yếu
vẫn thải bỏ trực tiếp ra môi trường, một phần thì được chôn lấp, tuy nhiên
phương pháp này cần một diện tích đất bỏ trống, hơn nữa phương pháp này
khụng tỏi sử dụng được các chất thải rắn.[52]
Hiện nay cũng có rất nhiều các biện pháp sinh học được áp dụng trong xử
lý chất thải rắn tinh bột sắn. Nguyễn Hữu Văn và cộng sự đã nghiên cứu thành
công quá trình ủ chua bã sắn với các chất phụ gia khác nhau để làm thức ăn cho
động vật nhai lại. Các phụ gia đựợc sử dụng là: cám gạo 3% + muối ăn 0.5%
(tính theo khối lượng tươi) (BSC); rỉ mật 3% + muối ăn 0,5% (BSMa); và muối
ăn 0.5% (BSMu). Bã sắn được trộn đều theo các công thức và ủ yếm khí trong
15 túi riêng biệt cho mỗi công thức. Mẫu thức ăn ở 3 túi ny lon trong mỗi công
thức ủ được lấy ngẫu nhiên ở các thời điểm 0, 7, 14, 21 và 42 ngày sau khi ủ để
phân tích thành phần hóa học. Giá trị pH và hàm lượng HCN ở các công thức
giảm nhanh chóng sau khi ủ. Giá trị pH thấp dưới 3,8 sau 21 ngày ủ và hàm
lượng HCN sau 14 và 21 ngày ủ lần lượt giảm xuống dưới mức 100 và 80 mg/kg
DM [24].
17
Tại Thái Lan người ta tận dụng bã sắn để sản xuất Axit xitric: Tại Thái Lan
chỉ có 3 nhà máy sản xuất axit xitric. Một nhà máy sử dụng bã sắn nghiền sắn
lấy từ các nhà máy tinh bột làm nguyên liệu thô (khoảng 5-6 tấn/ngày) nhờ khả
năng lên men bề mặt ở trạng thái rắn của chúng. Hai nhà máy còn lại mới được
thành lập sử dụng các sắn lát làm nguyên liệu nhờ quá trình lên men bề mặt và
bề sâu. Để sản xuất 6 tấn axit xitric mỗi ngày cần khoảng 40 tấn lát sắn.[25]
Võ Thị Hạnh và cộng sự đã nghiên cứu thành công việc sản xuất ethanol từ
bã sắn. Bã sắn có thể được sử dụng để sản xuất ethanol vỡ nó chứa cellulose,
Hemi-cellulose và tinh bột cao. Một phương pháp tiền xử lý chất thải sắn bằng
cách sử dụng acid và thủy phân enzyme để chuyển đổi các carbohydydrat thành
đường thông qua quá trình lên men đã được công bố. Từ một kg chất thải ướt
tinh bột sắn thủy phân bằng acid hydrochloric 0,25-0,4% (HCl) ở 121 oC trong
30 phút hoặc 0,05% Termamyl tại pH 5.5, 90 oC trong 1 giờ, tiếp theo dùng
Celluclast 0,05%đvà 0,01% AMG tại pH 4,5 và 55oC trong 16 giờ, một lít thủy
phân có chứa 9% (w / v) giảm dung dịch đường thu được.
Sự kết hợp của thủy phân bã thải sắn và rỉ đường mía có thể được sử dụng
cho quá trình lên men ethanol bằng cách sử dụng các S. cerevisiae Sc6. Nồng độ
ethanol thu được trong nước dùng lên men là 7,3%, với một hiệu suất chuyển
hóa đường vào ethanol là 50,3%. Theo kết quả, một lít ethanol 94,5% và 3,5 kg
chế phẩm sinh học được sản xuất từ 16 kg bã sắn và 1,8 kg mật đường mía.
Nghiên cứu này mang lại giá trị cho các nhà máy, làm giảm ô nhiễm môi trường,
và sản xuất các chế phẩm sinh học cho động vật và làm thức ăn nuôi trồng thủy
sản [49].
Chương trình nghiên cứu sắn, rễ cây trồng quốc gia Viện nghiên cứu
(NRCRI) Umudike, PMB 7006 Umuahia, Abia,2007 đã đưa ra một số phương
pháp xử lý bã thải sắn như: Oboh (2006) đã nghiên cứu làm giàu chất dinh
dưỡng vỏ sắn bằng cách sử dụng một hỗn hợp củaSaccharomyces
18
cerevisaevàLactobacillus spp. Quá trình lên men không chỉ làm giảm độc tính,
mà enzyme còn chuyển hóa xelluloza chuyển đổi thành dạng chất dễ tiêu hóa
hơn để sử dụng làm thức ăn chăn nuôi lợn, cá [34].
Chất thải rắn của hoạt động chế biến tinh bột sắn có chứa một hàm lượng
cyanua, đây là một chất độc hại cho con người, hiện nay đó có một số cơ sở lựa
chọn biện pháp ủ chất thải rắn để làm phân comspot, với phương pháp này sẽ
làm giảm được mức độ độc tố của cyanide và từ đó giảm độ pH và tạo ra axit
lactic. Phương pháp này được cho là một phương pháp hiệu quả trong xử lý chất
thải rắn dựa trên hoạt động của các vi sinh vật để chuyển hóa các chất trong phế
thải thành những chất không độc, đồng thời bổ xung các chế phẩm để tăng khả
năng phân giải các chất và bổ xung thờm cỏc nguyên tố cho phù hợp để làm
phân bón [34].
Ngũai ra hiện nay biện pháp lờn men vỏ sắn để giảm lượng độc tố và
chuyển hoá các hợp chất ligno-cellulaza kháng enzym sang dạng vật chất dễ tiêu
hoá hơn cũng đang được áp dụng [34].
Nhìn chung các phương pháp sinh học trên được thực hiện dựa trên cơ chế
hoạt động phân giải tinh bột, xenluloza, lân photphat… của một số chủng vi sinh
vật, từ đó chuyển hóa các chất ở dạng độc hại và khó tiêu về dạng những chất
khụng gõy độc hại và dễ tiêu để phục vụ cho việc sản xuất thức ăn chăn nuôi
hoặc làm phân bón vi sinh.
+ Ưu điểm: Hiệu quả cao, rẻ tiền, dễ thực hiện, thân thiện với môi trường.
+ Hạn chế: chưa có nhiều nghiên cứu sản xuất chế phẩm sử dụng bã sắn
làm phân bón hữu cơ sinh học.
4. Nghiên cứu sử dụng vi sinh vật phân giải xenlulo, tinh bột trong xử lý
phế phụ phẩm nông nghiệp, phế phụ phẩm chế biến thực phẩm
Theo tác giả Võ Văn Phước Quệ và Cao Ngọc Điệp đã phân lập và nhận
19
diện được một số chủng vi khuẩn có khả năng phân giải xenlulo từ dạ cỏ bò đó
là 4 dòng vi khuẩn Q4, Q5, Q8, Q9 đều có khả năng sản sinh enzyme xelluloza
và phân giải hiệu quả giấy photocopy và rơm rạ. Phân tích di truyền phân tử dựa
trên trình tự 16S rRNA cho thấy dòng vi khuẩn Q5, Q8, Q9 đồng hình với dòng
Bacillus megaterium, dòng vi khuẩn Q4 đồng hình với dòng Cellulomonas
flavigena [21].
Trong giai đoạn 1986 – 2004 các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành
nhiều cụng trỡnh nghiên cứu về sử dụng các tác nhân sinh học trong tái sử
dụng phế phụ phẩm nông nghiệp, phế thải chế biến nông sản: rơm, cây ngô, bã
mía, thõn lỏ lạc, sản phẩm phụ của cây dứa (bã, vỏ, ngọn…) làm thức ăn chăn
nuôi [16]. Các tác giả Đặng Thị Thu [8], Lê Văn Hoàng [11] đã nghiên cứu
qui trình ủ chua bã sắn làm thức ăn gia súc với qui mô nhỏ ở phòng thí nghiệm.
Năm 2005, Kỹ sư Lê Thị Bích Phượng (Viện Sinh học nhiệt đới) và cộng sự đã
nghiên cứu thành công 2 loại chế phẩm sinh học ProBio-S và Bio-E ứng dụng
trong chế biến bã thải CBTBS làm thức ăn chăn nuôi. Chế phẩm sinh học
ProBio-S và Bio-E có chứa các chủng vi sinh vật có khả năng sinh
glucoamylase, cellulase và α amylase và các chủng vi sinh vật có khả năng duy
trì cân bằng hệ vi sinh vật đường ruụt (Bacillus sp., Lactobacillus sp.,
Saccharomyces sp) giúp cho quá trình chuyển hóa thức ăn chăn nuôi tốt hơn,
vật nuôi được tăng cường sức đề kháng, kết quả nghiên cứu cho thấy khi sử
dụng thức ăn chăn nuôi chế biến từ phế thải sau chế biến tinh bột sắn, lợn tăng
trọng nhanh hơn (1,1-1,3kg/thỏng) so với công thức đối chứng (chỉ ăn thức ăn
bình thường). Tuy nhiên các công trình nghiên cứu và ứng dụng trên mới chỉ
dừng ở phòng thí nghiệm, cho đến nay chưa có nghiên cứu sử dụng chế phẩm
vi sinh vật xử lý phế thải sau CBTBS làm thức ăn chăn nuôi qui mô công
nghiệp được báo cáo chính thức [16].
20