1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

CHƯƠNG 1: DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.73 KB, 121 trang )


7



Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình

thành và phát triển của các DN. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện khi sự phân

công lao động đạt đến một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư hữu về tư

liệu sản xuất được xác lập.

Trong giai đoạn tiền sử (Các Mác gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn)

không có sự phân biệt giữa giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là

người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người

điều khiển (quản lý) công việc của mình (gia đình mình), vừa là người trực tiếp

mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị trường. Đó là loại DN cá thể, DN gia

đình.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), có một số người gặp

một số vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải

tiến kỹ thuật, biết cách điều hành tổ chức công việc,... để thành đạt, ngày càng

giàu lên, tích lũy vốn, mở rộng được quy mô SXKD và do đó cần phải thuê

thêm người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản

xuất hàng hóa nhỏ khác thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất, đi

làm thuê cho người khác.

Theo các nhà kinh tế học hiện đại, thông thường đại đa số những người

khi mới trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Bắt đầu

sự nghiệp với số vốn ít ỏi của mình phần lớn họ đều thành lập DN nhỏ chỉ của

riêng mình, tự SXKD. Trong quá trình kinh doanh của mình, một số người

thành đạt đã phát triển DN của mình bằng cách mở rộng quy mô SXKD và

như vậy, nhu cầu về vốn đòi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ đó, thôi thúc các nhà DN

hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh thành lập xí nghiệp liên

doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần (CTCP), bằng cách

thành lập "liên kết dọc", "liên kết ngang"... để phát triển DN. Các DN lớn ra

đời phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN. Nền

kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các DN lớn, nhỏ tạo thành.



8



Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và

tác động sâu sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN

cũng có sự thay đổi về chất so với DNVVN của các thế kỷ trước: có kỹ thuật

và công nghệ hiện đại, sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao,.. DNVVN

không phát triển rời rạc mà gắn bó và "nấp dưới bóng" của các DN lớn.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, mô hình DNVVN ngày

càng được mở rộng và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển

mà cả ở những nước đang phát triển và kém phát triển. Vì thế, dù mang cái tên

rất khiêm tốn "vừa và nhỏ" song sức sống và vai trò của nó thật sự không nhỏ.

- Sự ra đời của các DNVVN ở Việt Nam

Theo các tài liệu lịch sử, DNVVN ở Việt Nam đã được hình thành

cùng với quá trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông

thôn. Những nghề và làng nghề thủ công truyền thống quan trọng, nổi tiếng

phần lớn đã ra đời từ rất lâu, vài trăm đến hàng nghìn năm ở đồng bằng sông

Hồng rồi sau đó lan ra cả nước. Hình thành tổ chức SXKD của nghề thủ công

và làng nghề truyền thống trước đây chủ yếu là kinh tế hộ gia đình hoặc liên

gia đình trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa, vừa mang

tính chất sáng tạo nghệ thuật.

Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn

được tiếp tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật

và phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa (TBCN), các DNVVN đã được

hình thành.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước

vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNVVN vẫn phát

triển. Vùng bị tạm chiếm, nhiều chủ DN chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà

Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn... bỏ vốn ra kinh doanh. Trong vùng tự do,

chính quyền cách mạng thành lập các DN để sản xuất các mặt hàng phục vụ



9



kháng chiến và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng thời khuyến khích nhân

dân lập xưởng sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng. Các DNVVN ở vùng tự

do đã có tác dụng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ đội,

nhân dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đến thắng lợi vẻ

vang.

Từ năm 1954 đến năm 1975, các DNVVN ở hai miền Bắc - Nam phát

triển theo hai đường lối, cơ chế khác nhau. Ở miền Bắc tiến hành xây dựng

chủ nghĩa xã hội (CNXH), hàng loạt xí nghiệp quốc doanh có quy mô lớn ra

đời, đồng thời các xí nghiệp quốc doanh của cấp huyện được phát triển mạnh,

còn DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xóa bỏ. Ở miền Nam, một mặt các cơ sở

công nghiệp lớn, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài

Gòn,... được phát triển, mặt khác các DNVVN chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân

cũng ra đời và phát triển mạnh.

Từ năm 1975 - 1985, các DNVVN ở miền Nam hoặc là bị quốc hữu hóa,

hoặc được cải tạo, xóa bỏ. DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến

khích phát triển, phải hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác xã

(HTX), công tư hợp doanh,... Nói chung, ở thời kỳ này các DNVVN ở hai

miền được phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, số lượng DNVVN

chưa nhiều và tồn tại dưới hai loại hình: xí nghiệp quốc doanh, HTX.

Sau năm 1986, nhờ tác động của các chủ trương và chính sách phát

triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại và lâu dài

của các hình thức sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện cho hàng loạt cơ sở sản

xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình ra đời, phát triển.

- Quá trình nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam

Nhìn lại quá khứ, chúng ta nhận thấy, trên thực tế các DNVVN ở nước

ta đã ra đời, tồn tại cách đây hàng trăm, nghìn năm. Song trước đây do chúng

ta quan niệm và vận dụng máy móc chế độ sở hữu, chỉ chú trọng phát triển



10



kinh tế quốc doanh, coi nhẹ việc sử dụng kinh tế ngoài quốc doanh, muốn xóa

bỏ nhanh kinh tế tư nhân, cá thể (hầu hết là DNVVN) nên Chính phủ đã áp

dụng nhiều chính sách và biện pháp nhằm hạn chế tối đa sự phát triển của khu

vực kinh tế tư nhân. Có thể nói, về mặt nhận thức, chúng ta không chính thức

thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Từ đó làm cho bộ phận kinh tế ngoài

quốc doanh phát triển rất thấp, không tương xứng với tiềm năng của nó trong

nền kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam liên tục rơi vào các cuộc khủng

hoảng trầm trọng.

Để khắc phục khủng hoảng kinh tế, bắt nguồn từ năm 1986, Đảng

Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới

toàn diện, trên phạm vi toàn quốc, trong đó đổi mới kinh tế được chú trọng

đặc biệt, sự đổi mới kinh tế này đã tạo ra những cơ sở pháp lý, chính trị và

kinh tế cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Việt Nam, bao gồm

khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá

thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân). Nhờ đó, hàng loạt các DN (chủ yếu là

DNVVN) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho

sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế

thì DNVVN còn gặp nhiều khó khăn trong SXKD, chưa phát huy được hết

tiềm năng của mình bởi nhiều nguyên nhân: do bản thân của các DN, do hiểu

biết về loại hình DN này còn nhiều hạn chế,... Mặt khác, các chuyên gia cùng

nhận định, khu vực DNVVN ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan trọng

cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải tiến hành

nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về DNVVN, để từ đó tạo điều kiện cho

các DNVVN phát huy hết khả năng của mình cho sự nghiệp phát triển kinh tế

đất nước.

Việc nghiên cứu loại hình DNVVN đã được Nhà nước quan tâm và được

các tổ chức của nhiều nước trên thế giới ủng hộ, hỗ trợ. Nhiều cơ quan khoa học,

cơ quan quản lý và nhiều địa phương đã tiến hành nghiên cứu về DNVVN: Bộ



11



Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Viện

Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội),

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội đồng Liên minh các HTX

Việt Nam, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO), Trung

tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh...

Ngay từ những năm 1990, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung

ương đã tiến hành hai cuộc hội thảo về DNVVN có sự tài trợ của Cộng hòa

Liên bang Đức, sau đó tiến hành khảo sát 135 DNVVN ở tỉnh Hà Bắc.

Năm 1991, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội) cùng với Trung tâm xúc tiến việc làm châu Á

(ARTEP-ILO) và các cộng tác của trường Đại học kinh tế Stockholm (Thụy

Điển) đã tiến hành khảo sát điều tra 1.000 DN nhỏ ở Hà Nội, Hải Phòng,

thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Quảng Ninh, Long An (theo chương trình

của dự án VIE 90/MO).

Năm 1993, Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội phối hợp với

Viện Khoa học lao động Nhật Bản thực hiện cuộc khảo sát 300 DNVVN ở

Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng...

Việc nghiên cứu về DNVVN ở Việt Nam cũng được thuận lợi bởi Việt

Nam trong những năm qua liên tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế.

Trước hết, Việt Nam tiếp nhận nhiều dự án phát triển DNVVN của Liên Hợp

Quốc như dự án VIE/86-054 về đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho các DNVVN,

Liên minh châu Âu (EU) - Việt Nam xây dựng "Quỹ phát triển các DNVVN",

năm 1996 Viện FRIEDRICH EBERT của Cộng hòa Liên bang Đức hợp tác

với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tài trợ cho dự án: "Chính

sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam", năm 1997 Công ty Tài chính

quốc tế chuyên trách khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới xây dựng



12



"Chương trình dự án Mê Kông MPDF" nhằm thành lập và phát triển DNVVN

khu vực tư nhân cho ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Các nước Vương

quốc Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... đã cử chuyên gia, giúp tư vấn

cũng như tài trợ về vốn cho khảo sát, lập quỹ bảo lãnh tín dụng,... để nghiên

cứu và phát triển DNVVN ở Việt Nam.

Có thể nói, mặc dù thời gian nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam chưa

nhiều song được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức

trên thế giới, quá trình nghiên cứu này đã thu hút được nhiều nhà khoa học,

nhiều chuyên gia trong nước và ngoài nước tham gia, do đó hàng loạt các tài

liệu, các sách hướng dẫn, các bài báo, các công trình nghiên cứu về DNVVN

được công bố. Các vấn đề về lý luận và thực tế liên quan đến DNVVN đều

được đưa ra nghiên cứu và ngày càng sáng tỏ: khái niệm, tiêu chí xác định, ý

nghĩa của DNVVN ở Việt Nam, các chính sách liên quan đến DNVVN,...

Song vì đây là vấn đề nghiên cứu rất rộng và phức tạp, nên quá trình nghiên

cứu về DNVVN vẫn luôn là vấn đề cấp thiết, luôn cần sự quan tâm của các

nhà khoa học để từng bước tháo gỡ những vướng mắc, những vấn đề mới nảy

sinh nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển, khai thác tốt tiềm năng,

góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.

1.1.2. Những vấn đề lý luận đã đạt được về DNVVN ở Việt Nam

Như đã trình bày phần trên, việc nghiên cứu DNVVN ở Việt Nam mặc

dù chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn so với thực tế tồn tại DNVVN ở

Việt Nam, song kết quả đạt được rất lớn, hàng loạt các vấn đề về DNVVN ở

Việt Nam đã được làm sáng tỏ. Cụ thể:

- Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu đã hình thành khái

niệm DNVVN, thuật ngữ DNVVN bước đầu đã đi vào cuộc sống, đi vào các

tài liệu khoa học, các văn kiện của Đảng và Nhà nước.



13



- Từng bước hoàn chỉnh định nghĩa về DNVVN. Mỗi cơ quan nghiên

cứu đều đưa ra định nghĩa về DNVVN. Trên cơ sở những định nghĩa đó, trong

Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa DNVVN ở

Việt Nam: DNVVN là các cơ sở SXKD, đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành,

có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm

không quá 300 người. Theo định nghĩa thì DNVVN ở Việt Nam bao gồm:

+ Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN.

+ Các DN thành lập và hoạt động theo Luật DNNN.

+ Các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX.

+ Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐCP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh

(ĐKKD).

- Khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN trong sự

nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

- Phân tích làm rõ những ưu thế, hạn chế cũng như khuyết điểm của

các DNVVN.

- Xác định những điều kiện kinh tế - xã hội cũng như vai trò quản lý

của Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ đối với sự phát triển nhanh,

mạnh và có hiệu quả của các DNVVN.

- Nghiên cứu hình thành và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng

như các chính sách hỗ trợ để phát triển DNVVN.

Với kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu, đặc biệt là với sự ra đời

của Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN

đã làm thay đổi quan niệm của các cấp ủy Đảng và Nhà nước cũng như nhận

thức của mọi người nói chung về loại hình DNVVN, từ chỗ không chấp nhận

sự tồn tại, phân biệt đối xử, kỳ thị,... đến chỗ thừa nhận, khuyến khích hỗ trợ



14



DNVVN phát triển. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhiều kiến nghị, giải pháp

được trình bày cho các nhà hoạch định chính sách, cho Chính phủ, tạo cơ sở

ban hành những chính sách nhằm khuyến khích phát triển DNVVN.

Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đứng trước tình hình

biến đổi phức tạp và sôi động của đời sống kinh tế - xã hội nhiều vấn đề mới

đối với DNVVN tiếp tục phát sinh, đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu để

phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH.

1.1.3. Những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về DNVVN

Trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, các DN có quy mô

vừa và nhỏ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, song trong từng giai đoạn

khác nhau sự quan tâm, tạo điều kiện cũng khác nhau bởi sự khác nhau về

quan điểm đối với loại hình DN này.

- Giai đoạn từ 1986 trở về trước

Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta quan niệm về chế độ sở

hữu XHCN gồm hai bộ phận quốc doanh và tập thể, còn kinh tế tư nhân thuộc

diện cải tạo. Xét về quy mô, cả quốc doanh và tập thể đều là loại vừa và nhỏ,

nhất là các HTX tiểu thủ công nghiệp, nhưng chưa có khái niệm về DNVVN.

- Giai đoạn từ 1986 đến nay

Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã đề ra đường lối

đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, thừa nhận sự tồn tại và phát

triển lâu dài của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết

Đại hội VI khẳng định: cùng với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế

quốc doanh và kinh tế tập thể, cần sử dụng khả năng tích cực của kinh tế tiểu

sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, mở rộng nhiều hình thức liên kết

giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi và bình đẳng trước

pháp luật. Đường lối này lại được củng cố thêm ở Đại hội Đảng VII, VIII, IX,

các văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội này đều nêu rõ chủ trương xuyên



15



suốt là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều

thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là các bộ

phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Theo đó các DN thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào kinh doanh đúng pháp

luật, theo định hướng chung của Nhà nước đều được khuyến khích, tạo điều

kiện để phát triển. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ DNVVN

bắt đầu du nhập vào nước ta, cũng có ý kiến cho rằng, đây là loại hình kinh tế

của chủ nghĩa tư bản. Nhưng qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã khẳng

định rằng, sự tồn tại của DNVVN là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN ở nước ta. Từ đó, đã tác động lớn đến quan điểm

của Đảng và Nhà nước đối với DNVVN. DNVVN không còn coi là phụ trợ

như trước, mà giờ đây là công cụ hữu hiệu, là nhà thầu phụ quan trọng cho các

DN lớn góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nhấn mạnh: "Trong phát triển

mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu

hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần

thiết và có hiệu quả" [10, tr. 28]. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục

nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một

số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr. 27].

Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để từng

bước hình thành hệ thống thể chế chính sách khuyến khích phát triển

DNVVN. Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng như:

+ Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi

công dân theo quy định của pháp luật, công nhận quyền được đối xử của các

thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

+ Nghị định 66-HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá

nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định quy định trong

Nghị định 221-HĐBT ngày 23-7-1991



16



+ Luật Công ty và Luật DN tư nhân 1990 quy định khung pháp luật

cho các DN này hoạt động, tham gia thị trường trong nước và ngoài nước.

+ Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất

đai năm 1998 và năm 2001 đã quy định các DN có quyền hợp pháp về sử

dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.

+ Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 quy định rõ những

chính sách ưu đãi cho các dự án kinh doanh thuộc các ngành nghề, các vùng

khó khăn, đặc biệt khó khăn cần được ưu đãi.

+ Luật HTX năm 1996 nhằm để phát huy vai trò quan trọng của kinh

tế hợp tác, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX.

+ Nghị định số 15/CP-1997 của Chính phủ về chính sách khuyến khích

phát triển HTX.

+ Luật Thuế thu nhập DN năm 1997 đơn giản hóa và thực hiện thống

nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình kinh doanh trong nước.

+ Luật Thuế giá trị gia tăng - một sắc thuế giản đơn, công bằng thay

thế Luật Thuế doanh thu.

+ Luật Thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương

mại của các DN.

+ Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và Nghị định

số 51 (7/1999) cụ thể hóa việc thực hiện luật đó, đã đề ra khá nhiều chính sách

cụ thể áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức SXKD, kể cả cá nhân và nhóm

kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT (nay là Nghị định 02/2000/QĐ-TTg

ngày 03-02-2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh).

+ Luật DN năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000) quy định

việc tổ chức hoạt động của bốn loại hình DN: công ty TNHH, CTCP, DNTN,

công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty và Luật DNTN trước kia.



17



+ Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng

Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.

+ Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về

xuất, nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một cơ chế 5 năm thay cho cơ chế

hàng năm trước đây, giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp

kinh tế.

+ Các chính sách về tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển như

Quyết định 67/1997/QĐ-TTh, Nghị định 43/1999/NĐ-CP...

+ Đặc biệt là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp

phát triển DNVVN.

Rõ ràng là, trải qua 16 năm đổi mới của Đảng, thể chế kinh tế nước ta

đã từng bước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ

thống các chính sách theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành,

tuy chưa thật sự hoàn chỉnh, song hệ thống chính sách hiện hành này đã bao

quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của DNVVN như: chính

sách về hành nghề và tạo lập DN, chính sách về thuế, chính sách về vốn và tín

dụng, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách công nghệ,...

Nhờ hệ thống chính sách này mà kinh tế dân doanh bước đầu bùng nổ,

mọi lực lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của nền

kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Một ví

dụ nổi bật, là từ khi Luật DN có hiệu lực thi hành, chỉ riêng năm 2000 đã có

thêm 13.891 DN mới ĐKKD, năm 2001 thêm 22.945 DN, 6 tháng đầu năm

2002 thêm khoảng 11.000DN nhưng đáng chú ý nhất là số DN mới này đã giải

quyết được thêm 1 triệu lao động mới có việc làm (khoảng 30% số lao động

mới) (chưa kể hơn 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký thu hút khá

nhiều lao động) [21, tr. 62].

Song, như trên đã trình bày, đây là hệ thống chính sách chung cho DN



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

×