Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.73 KB, 121 trang )
46
+ 81 Công ty TNHH, chiếm tỷ lệ 97,6% tổng Công ty TNHH.
+ 7 CTCP, chiếm tỷ lệ 87,5% tổng CTCP.
+ 15.131 hộ kinh doanh cá thể.
Các DNVVN thuộc kinh tế ngoài quốc doanh như: DNTN, Công ty
TNHH, CTCP có xu hướng tăng dần qua các năm về mặt số lượng cơ sở, quy mô
kinh doanh, ngành nghề kinh doanh ngày càng đa dạng, thị trường tiêu thụ vươn
ra ngoài tỉnh, ngoài nước (năm 1992: 19 DN, năm 1996: 87 DN đến năm
1999: 137 DN). Đặc biệt, qua tác động của Luật DN có hiệu lực từ ngày 0101-2000 số lượng DN năm 2000 tăng so với năm 1999 là 53 DN (mức tăng trưởng:
38,69%), vốn đăng ký tăng so với năm 1999 là 45,63%; Năm 2001 tăng so với
năm 2000: 94 DN (mức tăng trưởng: 49,47%), vốn đăng ký tăng so với năm
2000 là 53,65% (xem bảng 2.3). Bên cạnh đó DNVVN thuộc DNNN thì hầu
như không có sự biến động đáng kể về số lượng song có sự thay đổi về chất.
Trước sự tác động của cơ chế thị trường một loạt các DN bị phá sản, giải thể
như: XN xay xát 15 tấn/ ca, XN mộc dân dụng Đức Phổ, Nhà máy sứ,... Đồng
thời một loạt các DN mới được xây dựng với dây chuyền công nghệ tiên tiến,
tạo nên những sản phẩm mới có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của thị
trường như Nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu, nhà máy sản xuất tinh bột
mì Tịnh Phong,...
- Về phân bố ngành nghề và địa bàn hoạt động
Theo Luật DNTN, Luật Công ty (1990), Luật DN (1999) quy định DN
được phát triển đa ngành nghề tùy theo khả năng của DN (trừ những ngành nghề
bị pháp luật cấm). Các DNVVN ở Quảng Ngãi được mở ra với các ngành
nghề tương đối đa dạng trong các lĩnh vực xây dựng, chế biến nông lâm thủy
sản, vận tải, y dược, may mặc, dịch vụ khách sạn, du lịch, tin học, xăng
dầu,...đã góp phần đáp ứng nhu cầu SXKD, nhu cầu tiêu dùng cho nhân dân,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Cụ thể:
Bảng 2.4: Phân bổ DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
47
theo ngành nghề hoạt động năm 2001
Loại hình
doanh nghiệp
Tổng số
Số
lượng
Tổng số
15.509
DNNNTW
8
DNNNĐP
37
Hợp tác xã
49
DN tư nhân
196
C. ty TNHH
81
CTCP
7
Hộ KD cá thể 15.131
%
100
100
100
100
100
100
100
100
Công nghiệp,
khai thác chế
Xây dựng
biến lâm hải sản
Số
Số
%
%
lượng
lượng
Số
lượng
5.047 32,54
4
50
15 40,54
12 24,49
5.879 37,91 4.449 28,69
2
25
7
18,9
12 32,46
1
2,04
33 67,65
44
15,49
134
2
3
3
0,86
25
8,1
6,12
126
44,37
4.972 32,86
Thương mại
78
%
Dịch vụ
Số
lượng
27,46
36
%
12,68
5.793 38,29 4.366 28,85
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi.
Nhìn chung các DNVVN chủ yếu đầu tư vào các ngành thương mại dịch vụ, chế biến, xây dựng dân dụng. Đó là những lĩnh vực giàu tiềm năng về
tài nguyên khai thác hay các ngành nghề truyền thống hoặc các ngành ít vốn,
sinh lời khá cao, khả năng thu hồi vốn nhanh.
Về địa bàn hoạt động, DNVVN Quảng Ngãi phân bố không đều, chủ
yếu tập trung ở các trung tâm hoặc các nơi có đường quốc lộ đi qua và các khu
công nghiệp đang triển khai như thị xã Quảng Ngãi: 3.421 cơ sở, Sơn Tịnh:
2.389 cơ sở, trong khi đó ở huyện Sơn Tây chỉ có 27 cơ sở, huyện Lý Sơn:
224 cơ sở. So sánh về số cơ sở giữa nơi đông nhất và nơi thấp nhất gấp nhau
126 lần. Hầu hết các DNNN, các HTX đều tập trung ở thị xã Quảng Ngãi (7/8
DNNN Trung ương, 27/37 DNNN địa phương, 19/49HTX).
Bảng 2.5: Phân bổ DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
theo địa bàn hoạt động năm 2001
STT
1
Địa bàn hoạt động
Thị xã Quảng Ngãi
Tổng
3.421
Công nghiệp,
khai thác chế biến
lâm hải sản
413
Xây
dựng
Thương
mại
Dịch
vụ
76
1.596
1.336
48
2
Huyện Đức Phổ
2.075
914
11
614
536
3
Huyện Mộ Đức
1.355
458
8
457
432
4
Huyện Tư Nghĩa
1.722
927
10
501
284
5
Huyện Sơn Tịnh
2.389
831
12
825
721
6
Huyện Bình Sơn
2.097
717
7
868
505
7
Huyện Nghĩa Hành
940
285
2
456
197
8
Huyện Ba Tơ
251
67
2
76
106
9
Huyện Minh Long
120
57
1
32
30
10
Huyện Trà Bồng
296
51
1
138
106
11
Huyện Sơn Hà
592
212
4
228
148
12
Huyện Sơn Tây
27
5
13
9
13
Huyện Lý Sơn
224
110
75
39
15.509
5.047
5.879
4.449
TỔNG SỐ
134
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Quảng Ngãi.
Với sự phân bố này nhận thấy, trong những năm qua các DNVVN
thường được hình thành một cách tự phát, thường tập trung trong nội thị, đan
xen vào các khu dân cư, từ đó đã gây ra những bất hợp lý về quy hoạch ngành
nghề, về vận tải, về tiêu thụ và gây ô nhiễm môi trường. Việc di dời các DN
này ra các vùng ngoại thị cần được đặt ra một cách khẩn trương. Việc bố trí lại
DN trên địa bàn lãnh thổ không chỉ là để tránh gây ô nhiễm môi trường mà
quan trọng hơn là để tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh, thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.2.2.2. Tiềm lực DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi
- Vốn.
Tiềm lực về vốn của một DN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của DN. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, nếu
tiềm lực vốn DN càng lớn thì DN càng có khả năng cạnh tranh trên thương
trường. Trong điều kiện một tỉnh mới được chia tách, ngân sách tỉnh có nhiều
49
khó khăn, vốn đầu tư của các DN ở mức quá thấp. Tại thời điểm năm 1995 tỷ
lệ DNNN địa phương không đủ vốn pháp định là 76%, năm 1998: 62,79% đến
năm 2001 tỷ lệ DN không đủ vốn pháp định đã giảm xuống còn 33%, quy mô
DN từ khi sắp xếp đổi mới đến nay đã tăng lên rõ rệt, vốn bình quân 1 DN từ
1,8 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 3 tỷ đồng năm 2001. Song số DN có vốn
dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 60%, thậm chí có DN vốn dưới
500 triệu đồng [27, tr. 10].
Đối với DN thuộc kinh tế tư nhân, với sự thông thoáng của môi trường
pháp lý, với cơ chế chính sách phù hợp, khu vực kinh tế này đã thu hút một
lượng vốn lớn trong dân cư để đầu tư vào SXKD, số cơ sở SXKD, quy mô
vốn đầu tư ngày càng tăng lên. So với thời điểm năm 1996, năm 2001 vốn
ĐKKD bình quân 1 DN tăng gấp 2,6 lần.
Bảng 2.6: Tổng số vốn kinh doanh của các DNVVN
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001
Công nghiệp,
khai thác chế
biến lâm hải sản
Tổng số
Loại
hình
doanh
nghiệp
Số
DN
Số tiền
(tr.đ)
Vốn bình
quân
(tr.đ/DN)
Số
DN
Số tiền
(tr.đ)
5.047
Xây dựng
Số
DN
Số tiền
(tr.đ)
Số
DN
TỔNG SỐ
15.50
9
DNNN TƯ
8
37.489
4.686
4
15.096
2
DNNN ĐP
37
108.988
2.945,6
15
41.713
3
20.933
7
HTX
49
26.650
543,9
12
5.461
3
600
DNTN
196
120.932
81
134.165
1.656,4
44
41.190
126
148.261
CTCP
7
67.210
Số
DN
9.601,4
21,8
5.879
Dịch vụ
Số tiền
(tr.đ)
617
CT TNHH
Số tiền
(tr.đ)
14.575
Hộ KD cá thể 15.131 329.856
134
Thương mại
4.972
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi.
4.449
2
7.818
13.568
12
32.774
1
575
33
20.014
78
56.792
36
76.064
5.793
4.366
50
Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về luợng vốn được đầu tư và kinh
doanh so với nhu cầu vốn thực tế cần thiết để đơn vị có đủ điều kiện mua sắm
trang thiết bị hiện đại, cải tiến công nghệ... thì lượng vốn như trên còn quá
thấp. Trong khu vực kinh tế tư nhân có đến gần 50% DN có số vốn dưới 500
triệu đồng, 70% DN có số vốn dưới 1 tỷ đồng. Nguyên nhân:
+ Đối với các DNTN bất lợi nhất và trước hết là chế độ chịu trách
nhiệm vô hạn của cá nhân chủ sở hữu tài sản. Có nghĩa là, tài sản cá nhân của
các chủ sở hữu tài sản không đầu tư vào kinh doanh đều có thể bị bên thứ ba
thu giữ để thực hiện nghĩa vụ cam kết. Điều đó làm cho DN sợ đầu tư mở rộng
để phát triển DN với quy mô lớn hơn.
+ Khi chủ DNTN bị ốm hoặc mất khả năng làm việc thì DN hoạt động
kinh doanh kém hiệu quả, có thể bị giải thể hoặc xảy ra phá sản. Nếu chủ
DNTN bị chết thì sự tồn tại của DN cũng chấm dứt; sự bất ổn này cũng là yếu
tố gây khó khăn trong việc vay, mượn tiền từ nhiều người khác.
+ Là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người rất thấp (khoảng
192 USD/người/năm) nên tiềm lực vốn nhàn rỗi trong dân cư không lớn.
+ Khả năng tiếp cận các nguồn vốn của DNTN rất hạn chế, ngoài
nguồn vốn tự có, kinh tế tư nhân trong tỉnh chủ yếu là vay tín dụng qua ngân
hàng để đầu tư vào sản xuất và mở rộng SXKD. Đối với các nguồn vốn như:
vốn vay ưu đãy từ Quỹ hỗ trợ phát triển, các dự án Chính phủ, các nguồn vốn
từ nước ngoài,... chưa được tiếp cận.
+ Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ chủ DN chưa qua
đào tạo đầy đủ nên khả năng liên doanh, liên kết trong kinh doanh còn nhiều hạn
chế.
+ Do khả năng kinh doanh thấp, lợi nhuận thấp nên tích lũy vốn của
các DNVVN còn hạn chế.
- Về trình độ công nghệ.
51
Đối với các DNVVN là DNNN, nhìn chung từ khi thực hiện Nghị định
388/NĐ-CP, các DN làm ăn kém hiệu quả đã bị giải thể hoặc sát nhập, những
DN còn lại trong quá trình sắp xếp lại đã bắt đầu quan tâm đến việc đầu tư đổi
mới thiết bị bằng nhiều nguồn vốn khác. Đồng thời một số DN mới xây dựng
đã đầu tư dây chuyền công nghệ tiên tiến, tạo ra những sản phẩm có chất
lượng cao. Song do hạn chế thông tin về công nghệ nên hầu hết các dây
chuyền sản xuất mới đầu tư xây dựng đều khá lạc hậu so với công nghệ tiên
tiến hiện thời của thế giới. Mặt khác, do kinh doanh kém hiệu quả, khả năng
tích lũy chưa có nên nguồn vốn đầu tư, cải tiến trang thiết bị còn rất hạn chế,
nhìn chung MMTB và công nghệ ở các DN còn lạc hậu, chậm đổi mới. Qua
kết quả khảo sát về thực trạng công nghệ, MMTB của các DNNN thuộc tỉnh
quản lý (năm 2000) chỉ có 1/28 DN có công nghệ tiên tiến, 25/28 DN có công
nghệ trung bình và 2/28 DN có công nghệ lạc hậu. Hệ số đổi mới thiết bị bình
quân của các DN là 27,8%, thậm chí có đến 10/28 DN không hề đổi mới thiết
bị, công nghệ mặc dù MMTB đã lạc hậu, TSCĐ đã cũ.
Đối với các DNVVN ngoài quốc doanh, phần lớn các DN này trước
khi thành lập thiếu sự chuẩn bị về kiến thức kinh doanh, công nghệ, thị trường
cộng thêm vào là số vốn ít ỏi nên trang thiết bị sản xuất hầu hết là sản xuất
trong nước, mà trước hết là mua lại trang thiết bị của các DNNN. Song với
tính linh hoạt, nhanh nhẹn của thành phần kinh tế này, để đáp ứng nhu cầu của
kinh doanh trong cơ chế thị trường, các DN đã tìm mọi cách xoay xở để đổi mới,
cải tạo trang thiết bị phục vụ sản xuất, song tuyệt đại đa số cũng chỉ ở trình độ
công nghệ trung bình. Năm 2000 trong 190 DN có 6 DN (3,2%) có trình độ kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến, trung bình có 177 DN (93,2%), lạc hậu có 7 DN
(68%).
Bảng 2.7: Trình độ kỹ thuật và công nghệ của các DNVVN
(DNTN, CT TNHH, CTCP) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2000
52
Tổng số
TT
Loại hình doanh
nghiệp
Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Tiên tiến
Trung bình
Lạc hậu
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
6
4,35
1
DN tư nhân
138
100
3
2,17
129
93,48
2
Công ty TNHH
46
100
3
6,52
43
93,48
3
Công ty cổ phần
6
100
5
83,3
1
16,6
190
100
177
93,2
7
3,68
Tổng cộng
6
3,2
Nguồn: Cục Thống kê Quảng Ngãi.
Nhận thức được sự cần thiết của vấn đề, các DN càng đặc biệt quan
tâm đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu sản xuất và khả năng cạnh tranh
trên thị trường, nhất là các DN chế biến thủy sản và lâm sản xuất khẩu. Qua
kết quả khảo sát kinh tế tư nhân trong tỉnh (khảo sát ở 27 DN vào thời điểm
cuối năm 2001), bản thân các chủ DN tự đánh giá về trình độ công nghệ sản
xuất của DN mình vào thời điểm năm 2000: khá: 7, trung bình: 19, kém: 1,
nhưng đến tháng 6/2001 thì khá: 9, trung bình: 18 (xem phụ lục 3).
DN khu vực sản xuất cá thể, hầu hết MMTB, công nghệ lạc hậu, lao
động thủ công là chủ yếu. Giá trị MMTB chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng
vốn kinh doanh của cơ sở sản xuất. Điều đó dẫn đến năng suất lao động thấp,
mẫu mã sản phẩm xấu, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh trên thị
trường là rất yếu.
- Về nhân lực
Về số lượng, tổng số lao động trong các DNVVN tính đến thời điểm
ngày 31/12/2001 là 104.176 người, chiếm 18,24% lực lượng lao động, bằng
14,92% nguồn nhân lực của cả tỉnh. Với 15.131 hộ kinh doanh cá thể và 284
DN tư nhân và 49 HTX đã thu hút gần 100.000 lao động thuộc các ngành nghề
khác. Các DNNN thuộc loại hình vừa và nhỏ do tỉnh quản lý có 37 đơn vị và
số lao động là 2.915 người. DNVVN do Trung ương quản lý có 8 đơn vị và số
53
lượng lao động là 1.686 người (xem phụ lục 1). Đó là số lao động thường
xuyên trong các DN. Ngoài ra số lao động thời vụ có đến hàng ngàn, đặc biệt
là các DN của ngành xây lắp.
Phương pháp tuyển dụng lao động ở các DN này chủ yếu thông qua giới
thiệu của bạn bè, người thân và qua tiếp xúc cá nhân. Việc đào tạo lao động
trong DN chưa được chú trọng, trình độ lao động trong các DNVVN chủ yếu là
lao động phổ thông chưa qua đào tạo, trình độ văn hóa thấp, thiếu kỹ năng lao
động (xem phụ lục 2). Số lao động qua đào tạo bình quân chỉ đạt 12% tổng số
lao động nhưng chủ yếu là trong các DNNN, CTCP, TNHH hoặc DNTN, còn
trong các hộ kinh doanh cá thể thì hầu hết lao động chưa qua đào tạo [15, tr. 2].
Về việc ký kết hợp đồng lao động và thực hiện chế độ bảo hiểm cho
người lao động, mặc dù trong năm qua đã được chủ DN quan tâm song chiếm
tỷ lệ còn khá khiêm tốn. Qua kết quả khảo sát tình hình SXKD của 27 DN cho
thấy: số người có ký hợp đồng lao động tính đến tháng 6/2001 là 174/813
chiếm tỷ lệ 21,4% (tăng 5,4% so với thời điểm năm 2000). Số người có bảo
hiểm xã hội là 94/813 chiếm tỷ lệ 11,57% (tăng 4,47% so với thời điểm năm
2000) (xem phụ lục 3).
- Về trình độ quản lý SXKD
Trong nền kinh tế thị trường, thiết yếu đòi hỏi cần phải có một đội ngũ
những người quản lý DN có kinh nghiệm, có bản lĩnh đồng thời phải nắm
vững lý thuyết quản trị DN, hiểu biết luật pháp,... Nhận thức được sự cần thiết
đó những năm qua tỉnh đã chú trọng trong việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ
quản lý DN, nhất là đối với DNNN. Đến nay thực trạng trình độ chuyên môn của
đội ngũ quản lý DNVVN trên địa bàn Quảng Ngãi như sau: Giám đốc các
DNNN Trung ương 100% có trình độ đại học, giám đốc các DNNN địa phương
100% có trình độ trung cấp trở lên. Trong các HTX, trình độ chuyên môn của
đội ngũ quản lý: Đại học, cao đẳng chỉ có 8 người (5,4%), trung cấp: 41 người
(27,89%), sơ cấp: 20 người (13,6%), chưa qua đào tạo: 78 người (53,06%)
(xem phụ lục 4). Rất nhiều DNTN, công ty TNHH, CTCP được hình thành
54
trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý DNNN và HTX nên
nhiều chủ DN là CBCNV nhà nước do vậy số có trình độ đại học, cao đẳng
chiếm 24,7%, song cũng còn đến 64,75% chủ DN chưa có bằng cấp (xem phụ
lục 5). Đối với chủ cơ sở sản xuất cá thể, phần lớn các chủ cơ sở sản xuất này
được kèm cặp qua thực tế, được gia đình truyền nghề, tự học hoặc nâng cao
kiến thức qua các lớp bồi dưỡng ngắn,... Nhìn chung có thể nói, phần lớn các
chủ DNVVN rất ít được trang bị kiến thức quản lý một cách hệ thống, nhiều
chủ DN chưa qua đào tạo, kiến thức quản lý thông qua kinh nghiệm là chủ yếu.
Chính vì vậy mà khả năng quản lý kinh doanh còn nhiều hạn chế, tiếp cận thị
trường chưa được mở rộng, khả năng liên doanh, liên kết chưa được mạnh
dạn. Thêm vào đó tình trạng khá phổ biến trong các DNVVN là các chủ DN ít
hiểu biết về pháp luật, chính sách kinh tế, chế độ kế toán,... đó là những trở
ngại không nhỏ đối với DNVVN trong hoạt động SXKD trong cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
2.2.2.3. Thị trường và sức cạnh tranh của DNVVN
Cùng với sự phát triển về số lượng DN, ngành nghề kinh doanh ngày
càng đa dạng, các sản phẩm, dịch vụ do các DNVVN thực hiện ngày càng
tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại, làm phong phú thêm thị trường.
Một số DN đã có một số loại sản phẩm đạt chất lượng được thị trường
trong và ngoài nước chấp nhận như sản phẩm đặc sản (đường phổi, đường
phèn,...), các sản phẩm đông lạnh xuất khẩu: mực, tôm, cá,... Trong một số lĩnh
vực như xây dựng, làm đường giao thông quy mô vừa và nhỏ, chế biến nông lâm
sản thực phẩm,... các DN ngoài quốc doanh đã từng bước chiếm lĩnh được thị
trường, khẳng định vị trí của mình nhờ cơ chế quản lý linh hoạt, mềm dẻo, chủ
động tìm và khai thác thị trường, huy động vốn nhanh, chủ động, giữ chữ tín trong
kinh doanh.
Song do kỹ thuật công nghệ lạc hậu cùng với trình độ quản lý và khả
năng tài chính hạn chế nên nhìn chung các DNVVN gặp khó khăn về thị trường,
55
hạn hẹp thị phần, sản phẩm chủ yếu chỉ tiêu thụ tại địa phương, sức cạnh tranh
kém. Theo số liệu năm 2000 chỉ có khoảng 26,32% DN có ưu thế chiếm lĩnh
thị trường, 62,1% DN kinh doanh trong thế chưa vững chắc và 11,58% không
có khả năng cạnh tranh để có thị trường trong nước (xem phụ lục 6). Về khả
năng xuất khẩu thì dự đoán chỉ có khoảng 18% DN có triển vọng xuất khẩu
trong những năm tới.
2.2.2.4. Hiệu quả kinh doanh của các DNVVN
Với quy mô vừa và nhỏ, các DNVVN dễ dàng phát huy những lợi thế
của mình: tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả
năng thay đổi mặt hàng, mẫu mã nhanh theo thị hiếu của khách hàng, sử dụng
nguyên liệu, vật liệu sẵn có ở địa phương,... để từ đó dẫn đến hoạt động
SXKD đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với DN thuộc kinh tế tư nhân, xét trên giác
độ quản lý cá nhân chủ DN có toàn quyền quyết định độc lập, do đó có thể
đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, mọi hoạt động SXKD tiến hành một
cách linh hoạt ứng phó nhanh và có hiệu quả thiết thực. Cá nhân chủ sở hữu
được quyền hưởng tất cả lợi nhuận tạo ra, điều đó thúc đẩy và tạo động lực
cho người chủ làm việc chăm chỉ, cần cù hơn. Phần lớn DNTN đều có quy mô
nhỏ, giữa người chủ và người thợ có mối quan hệ bà con, họ hàng, bạn bè,
quen biết tin cậy nhau, có thiên hướng tạo ra sự hòa hợp trong DN. Vì vậy đa
số các DN đều có những điều kiện thuận lợi để kinh doanh có hiệu quả, tốc độ
chu chuyển của vốn nhanh, điển hình như DN Kim Chung trong năm 2001 có
doanh thu 17.107 triệu đồng tương ứng với số vốn đầu tư: 600 triệu đồng,
Công ty tư vấn cầu đường có doanh thu 2.134 triệu đồng trong khi vốn đầu tư
chỉ có 198 triệu đồng... Gần đây, một số DNTN ngành thủy sản và chế biến
lâm sản đã tham gia làm hàng xuất khẩu, tạo hướng đi mới, nhằm khai thác lợi
thế, góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương. Song với thực trạng khó khăn
hiện tại (vốn, công nghệ, trình độ lao động, quản lý kinh doanh...) nên hầu hết
các đơn vị mới chỉ có khả năng tồn tại được trong thị trường cạnh tranh, số lãi
đạt được ở từng DN còn thấp, hiệu quả sinh lời của đồng vốn chưa cao. Theo
56
số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục thuế Quảng Ngãi, trong số 200/284 DN
kinh tế tư nhân gửi báo cáo năm 2001, tổng số doanh thu thuần các DN đạt
được là 557.690 triệu đồng, số DN hoạt động hòa vốn và có lãi là 161/200 DN
với số lãi 5.957 triệu đồng, số DN hoạt động còn bị lỗ là 39/200 DN với số lỗ
là 1.552 triệu đồng, hiệu suất sinh lời của đồng vốn là 0,0269.
Đối với HTX, theo báo cáo của Hội đồng Liên minh các HTX Quảng
Ngãi trong năm 2001 toàn tỉnh có 21/49 HTX loại khá (là HTX hoạt động SXKD
có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi ròng hàng năm
đạt từ 50 triệu đồng trở lên); có 25/49 HTX loại trung bình (là HTX hoạt động
SXKD không ổn định, phương án SXKD vẫn như trước khi chuyển đổi, làm
nghĩa vụ đối với Nhà nước chưa đầy đủ và lãi ròng hàng năm đạt dưới 50 triệu
đồng); 3/49 HTX yếu kém (là HTX trong hoạt động SXKD còn gặp nhiều khó
khăn, các nguyên tắc của HTX và nghĩa vụ đối với Nhà nước không được thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, thu nhập của HTX chỉ đủ nuôi bộ máy quản
lý). Tổng doanh thu các HTX phi nông nghiệp thực hiện được trong năm 2001 là
25.940 triệu đồng, tổng số lãi thực hiện là 1.534 triệu đồng, tổng số lỗ là 12 triệu
đồng [18, tr. 3].
Đối với các DNNN, qua sắp xếp, đổi mới phần lớn các DN đã khai thông
được bế tắc trong SXKD, hoạt động có hiệu quả hơn, lợi nhuận và nộp ngân
sách đều tăng hơn trước. Số DN kinh doanh có hiệu quả từ 17% (năm 1995)
tăng lên 54% năm 2001, số kinh doanh thua lỗ từ 30% (năm 1995) giảm còn
20% (năm 2001). Số DN hoạt động cầm chừng tuy có lãi nhưng không đáng
kể còn chiếm 26% tổng số DNNN địa phương [46, tr. 2].
Về khả năng đóng góp vào ngân sách nhà nước của các DNVVN thì
chỉ tính đóng góp của DNVVN thuộc DNNN địa phương trong những năm
qua (1996-2000) có xu hướng giảm: năm 1996 là 15,389 tỷ đồng; 1997 là
12,599 tỷ đồng; 1998 là 9,849 tỷ đồng; 1999 là 9,245 tỷ đồng; 2000 là 11,829
tỷ đồng nhưng số thu thuế công thương ngoài quốc doanh có xu thế tăng lên: