1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

CHƯƠNG 3 : QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.73 KB, 121 trang )


81



và chế biến các ngành phi nông nghiệp, các loại dịch vụ phục vụ sản xuất và

đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước hình

thành nông thôn văn minh hiện đại [17].

Tất cả các phương hướng đã nêu có liên quan đến sự phát triển DNVVN.

Nghị quyết Đại hội XIX nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các DNVVN, xây

dựng một số tập đoàn DN lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr.

27].

Với Quảng Ngãi, quan điểm trên càng được quán triệt sâu sắc hơn bởi

Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, chủ yếu là nông nghiệp. Việc quán triệt quan

điểm này sẽ là tiền đề quan trọng để thúc đẩy phát triển DNVVN ở các vùng

nông thôn trong tỉnh Quảng Ngãi. Khi phát triển được các DNVVN ở các

vùng nông thôn thì sẽ sử dụng tốt nguồn nhân lực dồi dào trong nông nghiệp

là một trong những yếu tố quan trọng cho tăng trưởng (vốn và lao động), tạo

sự phân công lao động tại chỗ và chuyển dịch cơ cấu nông thôn, góp phần

giảm thiểu nhu cầu di dân từ nông thôn vào thành thị, vào khu công nghiệp để

ổn định xã hội, đồng thời tăng được thu nhập của dân cư nông thôn.

Hai là, xác định phát triển DNVVN là một bộ phận quan trọng trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các DNVVN hình thành và

phát triển thường gắn với những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, phân bố

rộng trên khắp mọi địa bàn của tỉnh và chính vì thế chúng đã tạo ra các thay đổi

cơ cấu ngành, nghề, vùng kinh tế, cũng như cơ cấu và trình độ xã hội của các

vùng, huyện trong tỉnh. Kinh tế hàng hóa ở nông thôn, miền núi, huyện đảo Lý

Sơn được phát triển nên bộ mặt xã hội, đời sống văn hóa, tinh thần của những

vùng này đã có sự thay đổi chính là nhờ sự có mặt của các DNVVN trên địa bàn.

Nếu không có các DNVVN thì ắt không thể tạo ra sự phát triển kinh tế hàng hóa

ở nông thôn và nông nghiệp, không thể xóa bỏ sự khác biệt về mọi mặt giữa thị

trường và nông thôn... Rõ ràng DNVVN có vị trí quan trọng trong nền kinh tế

tỉnh nhà, là lực lượng phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp liên



82



minh công nông thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển theo đường lối

của Đảng.

Vì lẽ đó để đạt được mục tiêu mà NQ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Quảng Ngãi lần thứ XVI đề ra trong 5 năm 2001-2005, thì tất yếu phải xác

định xây dựng phát triển DNVVN là một bộ phận quan trọng trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Ba là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật

của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối

xử đối với kinh tế tư nhân, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách,

pháp lý và tâm lý xã hội để DNVVN, đặc biệt là DNVVN thuộc kinh tế tư

nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm,

không hạn chế về quy mô... khuyến khích các DNTN chuyển thành CTCP,

bán cổ phần cho người lao động; bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả

người lao động và người sử dụng lao động. Xóa bỏ quan niệm cho rằng chỉ

nên phát triển DNVVN đặc biệt DNVVN ở khu vực kinh tế tư nhân ở mức độ

cầm chừng để quản lý cho tốt bởi nếu phát triển mạnh DNVVN thì sẽ đi chệch

hướng XHCN vì đó là loại hình kinh tế của CNTB.

3.1.2. Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi đến năm 2005

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần XVI đã đề ra mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,

HĐH, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ đồng

thời giảm tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Bảng 3.1: Dự báo cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010

Đơn vị tính: %

Thực hiện

năm 2000

Tổng số



Dự kiến

năm 2005



Dự kiến

năm 2010



100



100



100



83



Nông lâm ngư nghiệp

Công nghiệp - xây dựng

Thương mại - dịch vụ



40,2



34 - 35



12,4



23



30 - 31



38,8



36,8



34 - 35



48,8



GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt: 1.046 - 2.086 USD; giải quyết

tốt hơn nhu cầu ăn ở, học tập, chữa bệnh, từng bước tạo chuyển biến về văn

hóa, giáo dục - đào tạo, y tế và các vấn đề xã hội khác nhằm cải thiện thêm

một bước đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,… mục tiêu phát triển

DNVVN là phát huy nội lực, năng động sáng tạo, bám sát nhu cầu thị trường

định hướng XHCN, phát triển về số lượng, từng bước củng cố chất lượng

quản lý, SXKD cùng với các loại hình DN khác thực hiện hoàn thành mục tiêu

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Trên cơ sở căn cứ vào kết quả phân tích thực trạng phát triển DNVVN

trong những năm qua; căn cứ vào tiềm lực kinh tế, vào mục tiêu chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển DNVVN của tỉnh, dự kiến một

số chỉ tiêu chủ yếu phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi:

- Đối với các DNVVN ngoài quốc doanh.

+ Phát triển trung bình 100 DN/năm (năm 2000 phát triển được 53

DN, năm 2001 phát triển 94 DN). Kế hoạch đến năm 2005 toàn tỉnh có 700

DN. Trong đó, phát triển DN ở mỗi huyện miền núi, hải đảo từ 5- 10 DN.

+ Nâng tỷ lệ DN có vốn đăng ký từ 1 tỷ đồng trở lên đến năm 2005 là

80%, vốn bình quân của 1 DN trên 1,5 tỷ đồng.

+ Đóng góp ngân sách: Trên 30% tổng thu ngân sách địa phương (năm

2001 là 25%).

+ Thu hút lao động: Bình quân 10.000 người/ năm.

- Đối với DNVVN thuộc khu vực nhà nước.

Tỉnh đã lập đề án về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

DNNN tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005 với quan điểm mục tiêu:



84



+ Tiếp tục giảm mạnh số lượng DNNN theo hướng chỉ giữ lại DN

100% vốn của Nhà nước thuộc các ngành nghề quan trọng và cần thiết; giải

thể các DN làm ăn thua lỗ; bán, cho thuê những DN có quy mô nhỏ; sát nhập

các DN kinh doanh cùng ngành nghề...

+ Tăng quy mô DN và nâng cao hiệu quả hoạt động của DN, thực hiện

từng bước để đến năm 2005 về cơ bản chỉ còn lại những DN hoạt động kinh

doanh có quy mô từ vừa trở lên; đảm bảo vốn pháp định cho các DNNN hoạt

động công ích.

+ Chuyển DNNN 100% vốn nhà nước hoạt động kinh doanh sang hoạt

động theo mô hình công ty TNHH một thành viên.

Theo đề án sắp xếp, đổi mới DNNN của tỉnh thì đến năm 2005 số

DNNN địa phương của tỉnh chỉ còn 27 DN (giảm 12 DN so với năm 2001),

trong đó: DNNN hoạt động công ích: 7 DN, Công ty TNHH 1 thành viên: 4 DN,

Công ty cổ phần: 14DN, đơn vị sự nghiệp có thu: 2 DN.

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN DOANH

NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI



3.2.1. Xây dựng quy hoạch phát triển DNVVN gắn liền với chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế tỉnh nhà, góp phần tích cực

trong việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vì vậy

việc xây dựng quy hoạch phát triển DNVVN trước hết cần phải gắn vào chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

3.2.1.1. Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, UBND tỉnh đã

phối hợp với các Sở ngành của tỉnh và Viện chiến lược phát triển Bộ Kế hoạch

và Đầu tư triển khai nghiên cứu và xây dựng dự án quy hoạch tổng thể kinh tế

- xã hội tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1996 - 2010.



85



- Theo quy hoạch, định hướng phát triển ngành nghề của tỉnh là phát

triển các ngành công nghiệp trong cụm công nghiệp tổng hợp Dung Quất bao

gồm các nhà máy lọc dầu, luyện cán thép, công nghiệp sau hóa dầu; đẩy mạnh

công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản bao gồm chế biến mía đường và sau

đường, chế biến hải sản, súc sản,...; phát triển thương mại - dịch vụ...

- Theo quy hoạch, định hướng cơ cấu lãnh thổ của tỉnh được bố trí

theo ba vùng với hướng vừa phát triển có trọng điểm tạo đột phá cho nền kinh

tế của tỉnh vừa quan tâm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của những khu

vực khó khăn (trung du - miền núi), ba vùng phát triển đó là:

+ Vùng động lực bao gồm đô thị và các khu công nghiệp, dịch vụ. Lấy

đô thị hóa gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ để chuyển bớt một bộ phận

nhân khẩu nông nghiệp khỏi khu vực sản xuất nông nghiệp; hệ thống đô thị sẽ

được phát triển dọc ở ven biển và các trục giao thông; nâng cấp thị xã Quảng

Ngãi thành đô thị loại III vào năm 2003; hình thành thành phố Vạn Tường với

quy mô 12 vạn người vào năm 2010. Hình thành cụm công nghiệp Dung Quất

(với diện tích 2.575 - 4.240 ha), khu công nghiệp Quảng Phú (phía Tây thị xã

Quảng Ngãi, với diện tích 100 ha), khu công nghiệp Tịnh Phong (phía Bắc của

tỉnh, với diện tích 100 ha) và khu công nghiệp Phổ Phong (phía Nam của tỉnh,

với diện tích 300 ha).

+ Quy hoạch phát triển vùng đồng bằng ven biển. Hình thành các vùng

sản xuất tập trung theo hướng phát triển tổng hợp, đa dạng nhằm thúc đẩy

kinh tế hàng hóa phát triển với hiệu quả cao. Cụ thể: Mở rộng và thâm canh

cao vùng lúa đặc sản; xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn

quả gắn với công nghiệp chế biến và các điểm dân cư; hình thành vùng chăn

nuôi lợn, bò sữa; khai thác tổng hợp kinh tế ven biển; xây dựng các cụm công

nghiệp chế biến ven biển; phục hồi và phát triển tiểu thủ công nghiệp và các

ngành nghề truyền thống...



86



+ Quy hoạch phát triển vùng trung du - miền núi. Tập trung các nguồn

lực để phát triển nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến; chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng đưa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào nông thôn,

chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi, hình thành các vùng cây công

nghiệp; củng cố và phát triển mạng lưới thương nghiệp; xây dựng kết cấu hạ

tầng; chú trọng công tác chăm lo sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân

trí nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các vùng khác của tỉnh.

3.2.1.2. Định hướng quy hoạch phát triển DNVVN của tỉnh

Trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã

được xây dựng, các định hướng quy hoạch phát triển DNVVN của tỉnh cũng

được hình thành nhằm đạt được các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển DNVVN

của tỉnh nói riêng, đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh nói chung.

Một là, phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ ở thành thị

và nông thôn, ở vùng sản xuất tập trung với vùng nông nghiệp.

Theo qui hoạch đến năm 2010, Quảng Ngãi hình thành và phát triển

4 khu công nghiệp lớn: Dung Quất, Tịnh Phong, Quảng Phú, Phổ Phong. Tại

các khu công nghiệp cùng với việc xây dựng các DN lớn, cần chú ý tạo điều

kiện thuận lợi để phát triển các DN với qui mô nhỏ hoặc vừa làm vệ tinh cho

các DN lớn.

Các DNVVN có ưu thế so với các DN lớn là có thể phân bổ rộng rãi

và sử dụng được tài nguyên, nguyên liệu sẵn có phân tán ở địa phương để sản

xuất ra các sản phẩm hàng hóa đáp ứng ngay nhu cầu tiêu dùng tại địa

phương, cũng như cả tỉnh và có thể tham gia xuất khẩu. Vì vậy, ngoài các khu

tập trung, các DNVVN được phát triển rộng khắp ở các vùng nông thôn, hình

thành các cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở các thị trấn, thị tứ như

Lý Sơn, Sa Huỳnh, Sa Kỳ, La Hà và các điểm tiểu thủ công nghiệp tập trung,



87



hình thành các cơ sở, DN có qui mô nhỏ (xưởng, trạm, trại, xí nghiệp) như

xưởng mộc, xưởng cơ khí, trạm giống cây con, các cơ sở may mặc,... phục vụ

nhân dân địa phương. Hình thành các cơ sở chế biến sản phẩm nông, lâm sản

tiêu dùng: làm tương, đậu phụ, bún, bánh, xay xát, nghiền thức ăn,... phát triển

những ngành nghề truyền thống như nuôi trồng, chế biến thủy hải sản. Khôi

phục và phát triển mạnh các làng nghề (hiện nay Quảng Ngãi có 45 làng nghề

với 4.000 hộ và 10.000 lao động phân bổ ở 23 ngành nghề thủ công). Từ đó

hình thành được mạng lưới DNVVN phân bố rộng rãi đều khắp ba vùng: vùng

động lực (đô thị và các khu công nghiệp địa phương) vùng đồng bằng ven

biển, vùng trung du - miền núi góp phần thu hút thêm lao động nông nghiệp có

việc làm, giải quyết được nạn thất nghiệp, giảm mạnh lao động thuần nông

chuyển sang lao động chuyên hoặc kết hợp công nghiệp, dịch vụ. Chuyển dịch

cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, tăng thu nhập cho

dân cư, làm cho bộ mặt của nông thôn và miền núi dần dần đổi mới và giảm

bớt sự chênh lệch giữa các vùng.

Để thực hiện các giải pháp này, tỉnh cần quy hoạch và xây dựng các

khu công nghiệp dành cho DNVVN.

Hai là, phát triển các DNVVN theo định hướng ngành nghề phù hợp

với đặc điểm, điều kiện của từng vùng nhằm khai thác hết các tiềm năng, lợi

thế của từng địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động SXKD.

Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16, các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy, trong

các năm tới phát triển mạnh DNVVN ở các ngành nghề đánh bắt và chế biến

thủy sản, nhất là chế biến xuất khẩu; chế biến nông lâm sản, đặc sản xuất

khẩu, sản xuất chế biến các loại hàng hóa trong các ngành nghề truyền thống

có khả năng tiêu thụ; xây dựng, giao thông vận tải; khai thác sản xuất vật liệu

xây dựng: cát, đá, sỏi, gạch ngói, đá ong. Cụ thể ở từng vùng:



88



- Ở đô thị và các khu công nghiệp: Phát huy lợi thế về vốn và kết cấu

hạ tầng... phát triển mạnh công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề

truyền thống, sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển thương mại, dịch vụ, du

lịch... để làm động lực thúc đẩy sự phát triển các vùng phụ cận khác.

- Ở vùng đồng bằng ven biển: Phát triển mạnh công nghiệp chế biến

gắn liền với các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả và các điểm

dân cư. Khai thác tổng hợp kinh tế ven biển. Hình thành các trung tâm nghề cá

đảo Lý Sơn - Sa Huỳnh - Cổ Lũy - Sa Kỳ. Tổ chức du lịch ven biển. Xây dựng

các cụm công nghiệp chế biến ven biển, công nghiệp cơ khí sửa chữa quy mô

nhỏ ở nông thôn. Phục hồi và phát triển tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề

truyền thống.

- Ở vùng miền núi: Miền núi của tỉnh có diện tích rộng, nguồn nông

lâm sản đa dạng, lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó. Vì vậy, việc

phát triển kinh tế - xã hội miền núi đúng hướng là tạo ra sức sản xuất hàng hóa

thích ứng với đặc thù của từng hộ gia đình, từng cụm dân cư và từng tiểu vùng

kinh tế. Tăng thu nhập cho từng hộ gia đình đồng bào các dân tộc miền núi

vừa là mục tiêu kinh tế vừa là nhu cầu xã hội không những cho miền núi mà

còn ảnh hưởng mật thiết đến việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở

đồng bằng cả tỉnh. Đây còn là mục tiêu của Đảng ta về chiến lược con người

nhất là vấn đề dân tộc. Sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi chỉ có thể gắn

với sự phát triển của các DNVVN ở khu vực này: Phát triển mạng lưới kinh

doanh thương nghiệp để thu mua các nguồn hàng nông lâm sản và bán những

mặt hàng nhân dân có nhu cầu; hình thành các cơ sở sơ chế ở vùng nguyên

liệu tập trung; hình thành các cơ sở chế biến vừa và nhỏ nhằm sản xuất ra

hàng tiêu dùng tại chỗ cung cấp cho nhân dân như vật liệu xây dựng, thực

phẩm, đồ dùng gia đình...



89



Ba là, phát triển DNVVN trong mối quan hệ liên kết, hỗ trợ chuyển

giao kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các DN lớn đóng trên địa

bàn tỉnh.

Giữa các DNVVN và các DN lớn có mối quan hệ vừa hợp tác vừa

cạnh tranh. Cả hai loại DN là những bộ phận hợp thành không thể thiếu của

một nền kinh tế ở thế kỷ XXI. Vì vậy, phải xây dựng một số DN lớn (chủ yếu

DNNN) có khả năng SXKD lớn, có thể làm trung tâm cho các DNVVN làm

vệ tinh SXKD các mặt hàng mà tỉnh có ưu thế về nguyên liệu. Các DN lớn sẽ

hỗ trợ cho DNVVN trên địa bàn về đào tạo và đào tạo lại tay nghề, trao đổi

thông tin, tìm kiếm thị trường, chuyển giao công nghệ, thiết bị, hỗ trợ kỹ

thuật, kinh nghiệm quản lý... Các DNVVN phát triển hướng vào việc làm vệ

tinh, chân rết cho các DN lớn trong việc tạo đầu vào cho DN lớn cũng như

trong lĩnh vực phục vụ đầu ra cho sản phẩm của DN lớn như cung cấp nguyên

liệu vật liệu, gia công chế biến nguyên liệu vật liệu, chế biến chi tiết linh kiện

nhỏ, lắp ráp hoàn thiện sản phẩm, làm đại lý tiêu thụ sản phẩm, tận dụng phế

liệu của DN lớn để sản xuất các sản phẩm tiêu dùng....

Bốn là, phát triển các DNVVN theo hướng chất lượng và hiệu quả.

Khuyến khích phát triển các DNVVN có khả năng thâm nhập vào các

lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới bằng các con đường gia công, hợp tác

sản xuất với các hãng nước ngoài để nhanh chóng nắm bắt được công nghệ và

có thể phát triển các sản phẩm mới, đồng thời khuyến khích đổi mới thiết bị,

công nghệ theo phương châm "nhỏ mà tinh".

Khuyến khích phát triển các DNVVN gắn với việc sử dụng nhiều lao

động, nhất là lao động tại chỗ, góp phần tạo công ăn việc, giảm bớt sức ép dân

số và lao động đối với nền kinh tế tỉnh nhà. Bởi vì, Quảng Ngãi là một trong

những tỉnh có nguồn lao động rất dồi dào song tỷ lệ thất nghiệp lại khá cao.

Hàng năm, Quảng Ngãi có đến 50.919 người đi làm việc ở Thành phố Hồ Chí

Minh hoặc đi làm thuê theo thời vụ ở các tỉnh Tây Nguyên.



90



Như vậy, các DNVVN được khuyến khích phát triển, song không phải

khuyến khích phát triển tràn lan mà phát triển có chọn lọc, đảm bảo các điều

kiện về lao động, khoa học - công nghệ, thị trường, quản lý, vừa phù hợp với

điều kiện hiện có của địa phương, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh.

3.2.2. Tiếp tục đổi mới sắp xếp lại các DNNN có qui mô vừa và nhỏ

Hầu hết các DNNN thuộc tỉnh quản lý đều có quy mô vừa và nhỏ (thời

điểm cuối năm 2001 là: 37/39, chiếm tỷ lệ 94,87%), các DN này chủ yếu hình

thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, phát triển thiếu quy hoạch, chức năng,

ngành nghề kinh doanh chồng chéo, quy mô nhỏ bé, công nghệ thiết bị lạc

hậu. Qua các đợt sắp xếp theo Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT

từ 155 DNNN thuộc tỉnh quản lý đến năm 1996 còn 63 DN. Tiếp tục thực hiện

Chỉ thị 500/TTg ngày 25/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 20/TTg

ngày 20/4/1998 số DN đã giảm từ 63 DN còn 43 DN (1998), 39 DN (2001) và

đến tháng 6/2002 chỉ còn 34 DN (kể cả 4 DN thành lập mới). Trong đó đã

chuyển giao cho các Tổng công ty và các công ty Trung ương quản lý 15 DN,

sáp nhập 13 DN thành 5 DN, giải thể 5 DN, cổ phần hóa 4 DN và cổ phần hóa

bộ phận 1 DN, thành lập mới 4 DN.

Qua quá trình sắp xếp trên, quy mô DN đã tăng lên rõ rệt, vốn bình

quân 1 DN từ 1,8 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 3,5 tỷ đồng năm 2001. Tỉ lệ

số DN không đủ vốn pháp định giảm từ 76% (1995) xuống còn 33% (2001)

trên tổng số DN thuộc tỉnh. Phần lớn các DN đã định hướng được hoạt động,

một số DN đã có chuyển biến tích cực, hoạt động có hiệu quả hơn. Số DN

kinh doanh có hiệu quả từ 17% (1995) tăng lên 54% (2001), số kinh doanh

thua lỗ từ 30% (1995) giảm còn 20% (tương ứng 6 DN năm 2001). Số DN

hoạt động cầm chừng tuy có lãi nhưng không đáng kể là 8 DN. Hầu hết các

DN chuyển giao về Trung ương đều có điều kiện phát triển tốt hơn cả về vốn,



91



trang thiết bị, thị trường tiêu thụ và mở rộng SXKD. Các DN đã cổ phần hóa

đều hoạt động có hiệu quả hơn trước [46].

Song bên cạnh đó, trong các DNNN thuộc tỉnh quản lý (chủ yếu là

DNVVN) vẫn còn nhiều mặt tồn tại yếu kém như quy mô vốn bình quân của

DN nhỏ, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, năng lực hoạt động và khả năng cạnh

tranh còn yếu, số DN hoạt động cầm chừng còn chiếm tỷ lệ lớn, công tác cổ

phần hóa, giải thể DN tiến hành chậm,... Nguyên nhân là do một số DN, cán

bộ quản lý các DN vẫn muốn tồn tại độc lập, không dám mở rộng sản xuất, sợ

đổi mới nên hiệu quả hạn chế; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý

DN chưa đáp ứng yêu cầu SXKD trong cơ chế thị trường; tình hình tồn đọng

tài chính trong nhiều DN khá nặng nề gây khó khăn trong việc sát nhập các

DN; dôi thừa lao động trong các DN khá lớn;... Trước thực trạng đó, quán triệt

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX),

tỉnh đã lập đề án về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN

tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005 với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt

động của các DNNN, để các DNNN trên địa bàn tỉnh (chủ yếu là DNVVN)

thực sự là những DN hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao trong cơ

chế thị trường, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, góp phần

quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của tỉnh nhà.

Để đạt được mục tiêu trên, tỉnh cần thực hiện một loạt các giải pháp,

trong đó tập trung vào:

- Phân loại và định hướng phát triển các DNNN.

+ Nhóm 1: Sát nhập các DN, các đơn vị trực thuộc có cùng ngành

nghề, cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh (dự kiến sát nhập 9DN thành 3

DN); giải thể một số DN thua lỗ kéo dài, không cần thiết phải duy trì (dự kiến 1

DN).

+ Nhóm 2: Tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước đối với DNNN đang

hoạt động trong lĩnh vực công ích (5 DN); tiếp tục chuyển một số DNNN hoạt



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

×