Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.73 KB, 121 trang )
81
và chế biến các ngành phi nông nghiệp, các loại dịch vụ phục vụ sản xuất và
đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước hình
thành nông thôn văn minh hiện đại [17].
Tất cả các phương hướng đã nêu có liên quan đến sự phát triển DNVVN.
Nghị quyết Đại hội XIX nhấn mạnh: "Chú trọng phát triển các DNVVN, xây
dựng một số tập đoàn DN lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa" [12, tr.
27].
Với Quảng Ngãi, quan điểm trên càng được quán triệt sâu sắc hơn bởi
Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, chủ yếu là nông nghiệp. Việc quán triệt quan
điểm này sẽ là tiền đề quan trọng để thúc đẩy phát triển DNVVN ở các vùng
nông thôn trong tỉnh Quảng Ngãi. Khi phát triển được các DNVVN ở các
vùng nông thôn thì sẽ sử dụng tốt nguồn nhân lực dồi dào trong nông nghiệp
là một trong những yếu tố quan trọng cho tăng trưởng (vốn và lao động), tạo
sự phân công lao động tại chỗ và chuyển dịch cơ cấu nông thôn, góp phần
giảm thiểu nhu cầu di dân từ nông thôn vào thành thị, vào khu công nghiệp để
ổn định xã hội, đồng thời tăng được thu nhập của dân cư nông thôn.
Hai là, xác định phát triển DNVVN là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các DNVVN hình thành và
phát triển thường gắn với những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, phân bố
rộng trên khắp mọi địa bàn của tỉnh và chính vì thế chúng đã tạo ra các thay đổi
cơ cấu ngành, nghề, vùng kinh tế, cũng như cơ cấu và trình độ xã hội của các
vùng, huyện trong tỉnh. Kinh tế hàng hóa ở nông thôn, miền núi, huyện đảo Lý
Sơn được phát triển nên bộ mặt xã hội, đời sống văn hóa, tinh thần của những
vùng này đã có sự thay đổi chính là nhờ sự có mặt của các DNVVN trên địa bàn.
Nếu không có các DNVVN thì ắt không thể tạo ra sự phát triển kinh tế hàng hóa
ở nông thôn và nông nghiệp, không thể xóa bỏ sự khác biệt về mọi mặt giữa thị
trường và nông thôn... Rõ ràng DNVVN có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
tỉnh nhà, là lực lượng phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp liên
82
minh công nông thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển theo đường lối
của Đảng.
Vì lẽ đó để đạt được mục tiêu mà NQ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi lần thứ XVI đề ra trong 5 năm 2001-2005, thì tất yếu phải xác
định xây dựng phát triển DNVVN là một bộ phận quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ba là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật
của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử đối với kinh tế tư nhân, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách,
pháp lý và tâm lý xã hội để DNVVN, đặc biệt là DNVVN thuộc kinh tế tư
nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm,
không hạn chế về quy mô... khuyến khích các DNTN chuyển thành CTCP,
bán cổ phần cho người lao động; bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả
người lao động và người sử dụng lao động. Xóa bỏ quan niệm cho rằng chỉ
nên phát triển DNVVN đặc biệt DNVVN ở khu vực kinh tế tư nhân ở mức độ
cầm chừng để quản lý cho tốt bởi nếu phát triển mạnh DNVVN thì sẽ đi chệch
hướng XHCN vì đó là loại hình kinh tế của CNTB.
3.1.2. Một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi đến năm 2005
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần XVI đã đề ra mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ đồng
thời giảm tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Bảng 3.1: Dự báo cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010
Đơn vị tính: %
Thực hiện
năm 2000
Tổng số
Dự kiến
năm 2005
Dự kiến
năm 2010
100
100
100
83
Nông lâm ngư nghiệp
Công nghiệp - xây dựng
Thương mại - dịch vụ
40,2
34 - 35
12,4
23
30 - 31
38,8
36,8
34 - 35
48,8
GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt: 1.046 - 2.086 USD; giải quyết
tốt hơn nhu cầu ăn ở, học tập, chữa bệnh, từng bước tạo chuyển biến về văn
hóa, giáo dục - đào tạo, y tế và các vấn đề xã hội khác nhằm cải thiện thêm
một bước đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,… mục tiêu phát triển
DNVVN là phát huy nội lực, năng động sáng tạo, bám sát nhu cầu thị trường
định hướng XHCN, phát triển về số lượng, từng bước củng cố chất lượng
quản lý, SXKD cùng với các loại hình DN khác thực hiện hoàn thành mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trên cơ sở căn cứ vào kết quả phân tích thực trạng phát triển DNVVN
trong những năm qua; căn cứ vào tiềm lực kinh tế, vào mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển DNVVN của tỉnh, dự kiến một
số chỉ tiêu chủ yếu phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi:
- Đối với các DNVVN ngoài quốc doanh.
+ Phát triển trung bình 100 DN/năm (năm 2000 phát triển được 53
DN, năm 2001 phát triển 94 DN). Kế hoạch đến năm 2005 toàn tỉnh có 700
DN. Trong đó, phát triển DN ở mỗi huyện miền núi, hải đảo từ 5- 10 DN.
+ Nâng tỷ lệ DN có vốn đăng ký từ 1 tỷ đồng trở lên đến năm 2005 là
80%, vốn bình quân của 1 DN trên 1,5 tỷ đồng.
+ Đóng góp ngân sách: Trên 30% tổng thu ngân sách địa phương (năm
2001 là 25%).
+ Thu hút lao động: Bình quân 10.000 người/ năm.
- Đối với DNVVN thuộc khu vực nhà nước.
Tỉnh đã lập đề án về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005 với quan điểm mục tiêu:
84
+ Tiếp tục giảm mạnh số lượng DNNN theo hướng chỉ giữ lại DN
100% vốn của Nhà nước thuộc các ngành nghề quan trọng và cần thiết; giải
thể các DN làm ăn thua lỗ; bán, cho thuê những DN có quy mô nhỏ; sát nhập
các DN kinh doanh cùng ngành nghề...
+ Tăng quy mô DN và nâng cao hiệu quả hoạt động của DN, thực hiện
từng bước để đến năm 2005 về cơ bản chỉ còn lại những DN hoạt động kinh
doanh có quy mô từ vừa trở lên; đảm bảo vốn pháp định cho các DNNN hoạt
động công ích.
+ Chuyển DNNN 100% vốn nhà nước hoạt động kinh doanh sang hoạt
động theo mô hình công ty TNHH một thành viên.
Theo đề án sắp xếp, đổi mới DNNN của tỉnh thì đến năm 2005 số
DNNN địa phương của tỉnh chỉ còn 27 DN (giảm 12 DN so với năm 2001),
trong đó: DNNN hoạt động công ích: 7 DN, Công ty TNHH 1 thành viên: 4 DN,
Công ty cổ phần: 14DN, đơn vị sự nghiệp có thu: 2 DN.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
3.2.1. Xây dựng quy hoạch phát triển DNVVN gắn liền với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế tỉnh nhà, góp phần tích cực
trong việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vì vậy
việc xây dựng quy hoạch phát triển DNVVN trước hết cần phải gắn vào chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3.2.1.1. Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, UBND tỉnh đã
phối hợp với các Sở ngành của tỉnh và Viện chiến lược phát triển Bộ Kế hoạch
và Đầu tư triển khai nghiên cứu và xây dựng dự án quy hoạch tổng thể kinh tế
- xã hội tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1996 - 2010.
85
- Theo quy hoạch, định hướng phát triển ngành nghề của tỉnh là phát
triển các ngành công nghiệp trong cụm công nghiệp tổng hợp Dung Quất bao
gồm các nhà máy lọc dầu, luyện cán thép, công nghiệp sau hóa dầu; đẩy mạnh
công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản bao gồm chế biến mía đường và sau
đường, chế biến hải sản, súc sản,...; phát triển thương mại - dịch vụ...
- Theo quy hoạch, định hướng cơ cấu lãnh thổ của tỉnh được bố trí
theo ba vùng với hướng vừa phát triển có trọng điểm tạo đột phá cho nền kinh
tế của tỉnh vừa quan tâm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của những khu
vực khó khăn (trung du - miền núi), ba vùng phát triển đó là:
+ Vùng động lực bao gồm đô thị và các khu công nghiệp, dịch vụ. Lấy
đô thị hóa gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ để chuyển bớt một bộ phận
nhân khẩu nông nghiệp khỏi khu vực sản xuất nông nghiệp; hệ thống đô thị sẽ
được phát triển dọc ở ven biển và các trục giao thông; nâng cấp thị xã Quảng
Ngãi thành đô thị loại III vào năm 2003; hình thành thành phố Vạn Tường với
quy mô 12 vạn người vào năm 2010. Hình thành cụm công nghiệp Dung Quất
(với diện tích 2.575 - 4.240 ha), khu công nghiệp Quảng Phú (phía Tây thị xã
Quảng Ngãi, với diện tích 100 ha), khu công nghiệp Tịnh Phong (phía Bắc của
tỉnh, với diện tích 100 ha) và khu công nghiệp Phổ Phong (phía Nam của tỉnh,
với diện tích 300 ha).
+ Quy hoạch phát triển vùng đồng bằng ven biển. Hình thành các vùng
sản xuất tập trung theo hướng phát triển tổng hợp, đa dạng nhằm thúc đẩy
kinh tế hàng hóa phát triển với hiệu quả cao. Cụ thể: Mở rộng và thâm canh
cao vùng lúa đặc sản; xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn
quả gắn với công nghiệp chế biến và các điểm dân cư; hình thành vùng chăn
nuôi lợn, bò sữa; khai thác tổng hợp kinh tế ven biển; xây dựng các cụm công
nghiệp chế biến ven biển; phục hồi và phát triển tiểu thủ công nghiệp và các
ngành nghề truyền thống...
86
+ Quy hoạch phát triển vùng trung du - miền núi. Tập trung các nguồn
lực để phát triển nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến; chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng đưa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào nông thôn,
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi, hình thành các vùng cây công
nghiệp; củng cố và phát triển mạng lưới thương nghiệp; xây dựng kết cấu hạ
tầng; chú trọng công tác chăm lo sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân
trí nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các vùng khác của tỉnh.
3.2.1.2. Định hướng quy hoạch phát triển DNVVN của tỉnh
Trên cơ sở định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã
được xây dựng, các định hướng quy hoạch phát triển DNVVN của tỉnh cũng
được hình thành nhằm đạt được các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển DNVVN
của tỉnh nói riêng, đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh nói chung.
Một là, phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ ở thành thị
và nông thôn, ở vùng sản xuất tập trung với vùng nông nghiệp.
Theo qui hoạch đến năm 2010, Quảng Ngãi hình thành và phát triển
4 khu công nghiệp lớn: Dung Quất, Tịnh Phong, Quảng Phú, Phổ Phong. Tại
các khu công nghiệp cùng với việc xây dựng các DN lớn, cần chú ý tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển các DN với qui mô nhỏ hoặc vừa làm vệ tinh cho
các DN lớn.
Các DNVVN có ưu thế so với các DN lớn là có thể phân bổ rộng rãi
và sử dụng được tài nguyên, nguyên liệu sẵn có phân tán ở địa phương để sản
xuất ra các sản phẩm hàng hóa đáp ứng ngay nhu cầu tiêu dùng tại địa
phương, cũng như cả tỉnh và có thể tham gia xuất khẩu. Vì vậy, ngoài các khu
tập trung, các DNVVN được phát triển rộng khắp ở các vùng nông thôn, hình
thành các cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở các thị trấn, thị tứ như
Lý Sơn, Sa Huỳnh, Sa Kỳ, La Hà và các điểm tiểu thủ công nghiệp tập trung,
87
hình thành các cơ sở, DN có qui mô nhỏ (xưởng, trạm, trại, xí nghiệp) như
xưởng mộc, xưởng cơ khí, trạm giống cây con, các cơ sở may mặc,... phục vụ
nhân dân địa phương. Hình thành các cơ sở chế biến sản phẩm nông, lâm sản
tiêu dùng: làm tương, đậu phụ, bún, bánh, xay xát, nghiền thức ăn,... phát triển
những ngành nghề truyền thống như nuôi trồng, chế biến thủy hải sản. Khôi
phục và phát triển mạnh các làng nghề (hiện nay Quảng Ngãi có 45 làng nghề
với 4.000 hộ và 10.000 lao động phân bổ ở 23 ngành nghề thủ công). Từ đó
hình thành được mạng lưới DNVVN phân bố rộng rãi đều khắp ba vùng: vùng
động lực (đô thị và các khu công nghiệp địa phương) vùng đồng bằng ven
biển, vùng trung du - miền núi góp phần thu hút thêm lao động nông nghiệp có
việc làm, giải quyết được nạn thất nghiệp, giảm mạnh lao động thuần nông
chuyển sang lao động chuyên hoặc kết hợp công nghiệp, dịch vụ. Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, tăng thu nhập cho
dân cư, làm cho bộ mặt của nông thôn và miền núi dần dần đổi mới và giảm
bớt sự chênh lệch giữa các vùng.
Để thực hiện các giải pháp này, tỉnh cần quy hoạch và xây dựng các
khu công nghiệp dành cho DNVVN.
Hai là, phát triển các DNVVN theo định hướng ngành nghề phù hợp
với đặc điểm, điều kiện của từng vùng nhằm khai thác hết các tiềm năng, lợi
thế của từng địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động SXKD.
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16, các Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy, trong
các năm tới phát triển mạnh DNVVN ở các ngành nghề đánh bắt và chế biến
thủy sản, nhất là chế biến xuất khẩu; chế biến nông lâm sản, đặc sản xuất
khẩu, sản xuất chế biến các loại hàng hóa trong các ngành nghề truyền thống
có khả năng tiêu thụ; xây dựng, giao thông vận tải; khai thác sản xuất vật liệu
xây dựng: cát, đá, sỏi, gạch ngói, đá ong. Cụ thể ở từng vùng:
88
- Ở đô thị và các khu công nghiệp: Phát huy lợi thế về vốn và kết cấu
hạ tầng... phát triển mạnh công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề
truyền thống, sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển thương mại, dịch vụ, du
lịch... để làm động lực thúc đẩy sự phát triển các vùng phụ cận khác.
- Ở vùng đồng bằng ven biển: Phát triển mạnh công nghiệp chế biến
gắn liền với các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả và các điểm
dân cư. Khai thác tổng hợp kinh tế ven biển. Hình thành các trung tâm nghề cá
đảo Lý Sơn - Sa Huỳnh - Cổ Lũy - Sa Kỳ. Tổ chức du lịch ven biển. Xây dựng
các cụm công nghiệp chế biến ven biển, công nghiệp cơ khí sửa chữa quy mô
nhỏ ở nông thôn. Phục hồi và phát triển tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề
truyền thống.
- Ở vùng miền núi: Miền núi của tỉnh có diện tích rộng, nguồn nông
lâm sản đa dạng, lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó. Vì vậy, việc
phát triển kinh tế - xã hội miền núi đúng hướng là tạo ra sức sản xuất hàng hóa
thích ứng với đặc thù của từng hộ gia đình, từng cụm dân cư và từng tiểu vùng
kinh tế. Tăng thu nhập cho từng hộ gia đình đồng bào các dân tộc miền núi
vừa là mục tiêu kinh tế vừa là nhu cầu xã hội không những cho miền núi mà
còn ảnh hưởng mật thiết đến việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở
đồng bằng cả tỉnh. Đây còn là mục tiêu của Đảng ta về chiến lược con người
nhất là vấn đề dân tộc. Sự phát triển kinh tế - xã hội miền núi chỉ có thể gắn
với sự phát triển của các DNVVN ở khu vực này: Phát triển mạng lưới kinh
doanh thương nghiệp để thu mua các nguồn hàng nông lâm sản và bán những
mặt hàng nhân dân có nhu cầu; hình thành các cơ sở sơ chế ở vùng nguyên
liệu tập trung; hình thành các cơ sở chế biến vừa và nhỏ nhằm sản xuất ra
hàng tiêu dùng tại chỗ cung cấp cho nhân dân như vật liệu xây dựng, thực
phẩm, đồ dùng gia đình...
89
Ba là, phát triển DNVVN trong mối quan hệ liên kết, hỗ trợ chuyển
giao kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các DN lớn đóng trên địa
bàn tỉnh.
Giữa các DNVVN và các DN lớn có mối quan hệ vừa hợp tác vừa
cạnh tranh. Cả hai loại DN là những bộ phận hợp thành không thể thiếu của
một nền kinh tế ở thế kỷ XXI. Vì vậy, phải xây dựng một số DN lớn (chủ yếu
DNNN) có khả năng SXKD lớn, có thể làm trung tâm cho các DNVVN làm
vệ tinh SXKD các mặt hàng mà tỉnh có ưu thế về nguyên liệu. Các DN lớn sẽ
hỗ trợ cho DNVVN trên địa bàn về đào tạo và đào tạo lại tay nghề, trao đổi
thông tin, tìm kiếm thị trường, chuyển giao công nghệ, thiết bị, hỗ trợ kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý... Các DNVVN phát triển hướng vào việc làm vệ
tinh, chân rết cho các DN lớn trong việc tạo đầu vào cho DN lớn cũng như
trong lĩnh vực phục vụ đầu ra cho sản phẩm của DN lớn như cung cấp nguyên
liệu vật liệu, gia công chế biến nguyên liệu vật liệu, chế biến chi tiết linh kiện
nhỏ, lắp ráp hoàn thiện sản phẩm, làm đại lý tiêu thụ sản phẩm, tận dụng phế
liệu của DN lớn để sản xuất các sản phẩm tiêu dùng....
Bốn là, phát triển các DNVVN theo hướng chất lượng và hiệu quả.
Khuyến khích phát triển các DNVVN có khả năng thâm nhập vào các
lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới bằng các con đường gia công, hợp tác
sản xuất với các hãng nước ngoài để nhanh chóng nắm bắt được công nghệ và
có thể phát triển các sản phẩm mới, đồng thời khuyến khích đổi mới thiết bị,
công nghệ theo phương châm "nhỏ mà tinh".
Khuyến khích phát triển các DNVVN gắn với việc sử dụng nhiều lao
động, nhất là lao động tại chỗ, góp phần tạo công ăn việc, giảm bớt sức ép dân
số và lao động đối với nền kinh tế tỉnh nhà. Bởi vì, Quảng Ngãi là một trong
những tỉnh có nguồn lao động rất dồi dào song tỷ lệ thất nghiệp lại khá cao.
Hàng năm, Quảng Ngãi có đến 50.919 người đi làm việc ở Thành phố Hồ Chí
Minh hoặc đi làm thuê theo thời vụ ở các tỉnh Tây Nguyên.
90
Như vậy, các DNVVN được khuyến khích phát triển, song không phải
khuyến khích phát triển tràn lan mà phát triển có chọn lọc, đảm bảo các điều
kiện về lao động, khoa học - công nghệ, thị trường, quản lý, vừa phù hợp với
điều kiện hiện có của địa phương, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
3.2.2. Tiếp tục đổi mới sắp xếp lại các DNNN có qui mô vừa và nhỏ
Hầu hết các DNNN thuộc tỉnh quản lý đều có quy mô vừa và nhỏ (thời
điểm cuối năm 2001 là: 37/39, chiếm tỷ lệ 94,87%), các DN này chủ yếu hình
thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, phát triển thiếu quy hoạch, chức năng,
ngành nghề kinh doanh chồng chéo, quy mô nhỏ bé, công nghệ thiết bị lạc
hậu. Qua các đợt sắp xếp theo Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT
từ 155 DNNN thuộc tỉnh quản lý đến năm 1996 còn 63 DN. Tiếp tục thực hiện
Chỉ thị 500/TTg ngày 25/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 20/TTg
ngày 20/4/1998 số DN đã giảm từ 63 DN còn 43 DN (1998), 39 DN (2001) và
đến tháng 6/2002 chỉ còn 34 DN (kể cả 4 DN thành lập mới). Trong đó đã
chuyển giao cho các Tổng công ty và các công ty Trung ương quản lý 15 DN,
sáp nhập 13 DN thành 5 DN, giải thể 5 DN, cổ phần hóa 4 DN và cổ phần hóa
bộ phận 1 DN, thành lập mới 4 DN.
Qua quá trình sắp xếp trên, quy mô DN đã tăng lên rõ rệt, vốn bình
quân 1 DN từ 1,8 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 3,5 tỷ đồng năm 2001. Tỉ lệ
số DN không đủ vốn pháp định giảm từ 76% (1995) xuống còn 33% (2001)
trên tổng số DN thuộc tỉnh. Phần lớn các DN đã định hướng được hoạt động,
một số DN đã có chuyển biến tích cực, hoạt động có hiệu quả hơn. Số DN
kinh doanh có hiệu quả từ 17% (1995) tăng lên 54% (2001), số kinh doanh
thua lỗ từ 30% (1995) giảm còn 20% (tương ứng 6 DN năm 2001). Số DN
hoạt động cầm chừng tuy có lãi nhưng không đáng kể là 8 DN. Hầu hết các
DN chuyển giao về Trung ương đều có điều kiện phát triển tốt hơn cả về vốn,
91
trang thiết bị, thị trường tiêu thụ và mở rộng SXKD. Các DN đã cổ phần hóa
đều hoạt động có hiệu quả hơn trước [46].
Song bên cạnh đó, trong các DNNN thuộc tỉnh quản lý (chủ yếu là
DNVVN) vẫn còn nhiều mặt tồn tại yếu kém như quy mô vốn bình quân của
DN nhỏ, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, năng lực hoạt động và khả năng cạnh
tranh còn yếu, số DN hoạt động cầm chừng còn chiếm tỷ lệ lớn, công tác cổ
phần hóa, giải thể DN tiến hành chậm,... Nguyên nhân là do một số DN, cán
bộ quản lý các DN vẫn muốn tồn tại độc lập, không dám mở rộng sản xuất, sợ
đổi mới nên hiệu quả hạn chế; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý
DN chưa đáp ứng yêu cầu SXKD trong cơ chế thị trường; tình hình tồn đọng
tài chính trong nhiều DN khá nặng nề gây khó khăn trong việc sát nhập các
DN; dôi thừa lao động trong các DN khá lớn;... Trước thực trạng đó, quán triệt
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX),
tỉnh đã lập đề án về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005 với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt
động của các DNNN, để các DNNN trên địa bàn tỉnh (chủ yếu là DNVVN)
thực sự là những DN hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao trong cơ
chế thị trường, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, góp phần
quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của tỉnh nhà.
Để đạt được mục tiêu trên, tỉnh cần thực hiện một loạt các giải pháp,
trong đó tập trung vào:
- Phân loại và định hướng phát triển các DNNN.
+ Nhóm 1: Sát nhập các DN, các đơn vị trực thuộc có cùng ngành
nghề, cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh (dự kiến sát nhập 9DN thành 3
DN); giải thể một số DN thua lỗ kéo dài, không cần thiết phải duy trì (dự kiến 1
DN).
+ Nhóm 2: Tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước đối với DNNN đang
hoạt động trong lĩnh vực công ích (5 DN); tiếp tục chuyển một số DNNN hoạt