Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.7 KB, 18 trang )
quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó tạo bước ngoặc cho sự tiến bộ khoa
học của tất cả các nghành [6,274]
Nhìn chung trong việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo tưởng,
Bacon còn mang nặng tính trực quan. Chủ yếu ông nhận thấy khía cạnh nhận thức
luận của vấn đề chứ chưa đưa ra được các biện pháp khắc phục ảo tưởng một cách
hợp lý. Trên thực tế, các quan niệm sai lệch về sự vật hiện tượng mà con người
thường mắc phải xuất phát từ những hạn chế lịch sử của thời đại, từ những cơ sở
kinh tế xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội. Song, công lao của Bacon trong học
thuyết về ảo tưởng là ở chỗ nó đặt vấn đề về cơ sở xã hội của quá trình nhận thức.
Mục đích xuyên suốt của học thuyết về ảo tưởng này của ông là khẳng định nhận
thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét mọi cái phải trên tinh thần phê phán
cách mạng chứ không giáo điều [6,275]
Những đóng góp của Bacon không chỉ dừng lại ở đó, về mặt nhận thức luận
và phương pháp luận, ông còn là một trong những người đầu tiên nhận thấy những
điểm hạn chế trong học thuyết tam đoạn luận của Aristote mà từ trước tới giờ vẫn
được xem như là phương pháp nhận thức vạn năng suốt nhiều thế kỷ. Thuyết tam
đoạn luận của Aristote dưới diễn giải của trường phái kinh viện trung cổ mang nặng
tính tư biện máy móc trong nghiên cứu hiện thực. Do đó đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật, Bacon khẳng định thuyết logic học này chưa tương xứng với quy
mô và đòi hỏi của giới tự nhiên và chỉ bảo vệ củng cố cho những sai lầm. Ông kết
luận việc sử dụng thuyết logic học này chỉ có hại hơn là có lợi và khởi xướng ra tư
tưởng logic mới với phương pháp nhận thức mới trên cơ sở kế thừa những mặt hợp
lý của phương pháp cũ [6,276]
Như đã trình bày ở trên phương pháp nhận thức mới của Bacon được triển
khai bắt đầu từ việc liệt kê những phương pháp nhận thức cơ bản đã được sử dụng.
Đó là phương pháp con nhện và con kiến. Phương pháp con nhện theo Bacon chỉ
xuất phát từ một vài bằng chứng và căn cứ nhỏ bé rồi vội vã đưa ra các tiền đề và
những khẳng định vô căn cứ về bản chất sự vật nên nhận thức cũng vì thế mà không
chắc chắn. Phương pháp con kiến thì chỉ giúp ta hiểu được những gì bên ngoài vụn
vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích thực của sự vật. Trên cơ sở đó
Bacon đưa ra phương pháp con ong nhằm khắc phục những hạn chế của hai phương
pháp trên đồng thời kế thừa luôn những ưu điểm của chúng [6,277]
Phương pháp nhận thức tối ưu theo Bacon, là phương pháp quy nạp. Đây là
đóng góp rất lớn và rất có giá trị của Bacon. Vì ông chính là người đầu tiên khám
phá ra phương pháp quy nạp loại trừ. Quy nạp loại trừ tức là thu thập mọi dữ kiện
mà ta biết về sự vật sau đó phân tích và loại bỏ những dữ kiện phụ từ đó đi đến
khẳng định bản chất của sự vật sự việc [6,278]
Về phép quy nạp của Bacon, Macaulay cho rằng đó là phương pháp đã có từ
lâu. Mặc dù vậy thì điều này cũng không làm giảm bớt đi giá trị của những đóng
góp mà Bacon đã mang đến cho nhân loại. Vì đúng là phương pháp này đã có từ rất
lâu đời. Các triết gia và nhà khoa học thực nghiệm đã sử dụng quy nạp rất nhiều như
là một kỹ thuật để đưa ra những công thức toán, những định luật khoa học. Họ đã
dùng nó nhưng cho đến trước thời của Bacon nó vẫn chỉ là kinh nghiệm, phương
pháp làm việc và nghệ thuật tư duy của một số rất ít những người khôn ngoan.
Chính Bacon mới là người chuyển kỹ thuật đó thành một quy luật khoa học để có
thể giảng dạy cho tất cả mọi người [4,118]
Chính cả Bacon cũng nhận thấy trước sự lỗi thời trong phương pháp của ông,
bởi vì chính ông đã cho rằng thực hành khoa học sẽ tìm ra những phương pháp mới
hữu hiệu hơn là những phương pháp được nghĩ ra bởi những chính khách-những
người không phải là những nhà khoa học thực nghiệm chân chính. Ngay cả chính
những người yêu mến Bacon nhất cũng phải công nhận Bacon không phải là người
theo dõi và thấu hiếu rõ những trào lưu khoa học vào thời của chính ông. Bởi vì ông
quá bận rộn, đặc biệt với sự nghiệp chính trị của mình. Ông thích bàn luận hơn là
dành thời gian cho những tra cứu công phu. Nhiều tác phẩm của ông về khoa học và
triết học vẫn còn nhiều đoạn thiếu mạch lạc, trùng lắp mà nội dung lại chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, ước vọng và mang tính giới thiệu là chính [4,120]
Ưu điểm và cũng là nhược điểm lớn nhất của Bacon nằm ở chính lòng ưa
chuộng sự thống nhất của ông. Ước vọng của ông là muốn phối hợp hàng trăm khoa
học lại. Ông muốn được như Platon-làm một người có thiên tài cao cả có thể nhìn
khắp mọi sự như đứng từ một mỏm đá cao. Như đã nói ở trên, ông ngã quỵ dưới
gánh nặng của công việc ông đã tự vạch ra cho mình. Ông thất bại vì đó là những
việc quá sức của một con người dù cho người đó có là ai. Đời người thì quá ngắn
ngủi mà ông thì lại muốn ôm đồm nhiều thứ, có lẽ vì thế mà nhiều người gọi đó là
thảm kịch của mọi thiên tài. Nhưng ngẫm cho cùng thất bại đó cũng không có gì
đáng chê trách và đó là điều vẫn thường thấy ở những vĩ nhân [4,121]
Quan điểm duy vật của Bacon thể hiện khi ông giải thích về bản chất của linh
hồn. Theo ông, linh hồn biết cảm giác và tồn tại trong óc người và vận động theo
các dây thần kinh và mạch máu. Nó cũng là một vật có thể xác, một loại vật chất
chân chính như lửa và không khí. Quan điểm này là một điểm hạn chế lớn trong tư
tưởng của ông. Nó cho thấy trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm Anh vẫn còn là chủ
nghĩa duy vật tầm thường, chưa vượt xa được quan niệm các nhà duy vật Hy Lạp cổ
đại [6,279]
Bacon đã không thể đi vào miền đất hứa của khoa học nhưng ít ra đúng như
mong mỏi của mình, ông đã đứng được ở biên giới và chỉ ra cho nhiều thế hệ các
nhà triết học và khoa học thực nghiệm thế hệ sau thấy được con đường mà mình sẽ
đi và phải đi. Ông đã trở thành tiếng nói hùng hồn, lạc quan và có tính quyết định
của thời đại ông. Lịch sử không có mấy người là nguồn khởi hứng quan trọng cho
các nhà tư tưởng thế hệ sau như ông [4,121]
Lý luận về nhận thức của Bacon có đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của
khoa học thời bấy giờ. Tuy nhiên Bacon cũng như nhiều nhà tư tưởng duy vật kinh
nghiệm Anh khác đã không thể đứng vững trên lập trường duy vật vô thần. Vì theo
quan điểm của trường phái này, khoa học và thần học không nên can thiệp vào công
việc của nhau. Khoa học nghiên cứu cái mà thần học không thể có được. Còn thần
học nghiên cứu cái mà khoa học không thể vươn tới được. Tính không triệt để của
chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh đã thể hiện rất rõ qua quan điểm này. Điều này
cũng phản ánh tính thỏa hiệp của giai cấp tư sản Anh thời bấy giờ [5,224]
Có thể nói sự nghiệp tư tưởng nước Anh đã đi theo đường hướng triết học
của Bacon. Hobbes thừa hưởng quan điểm của ông và xây dựng phát triển thêm cho
chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm. Do những hạn chế của thời đại và giới hạn về mặt
nhận thức nên tư tưởng của các triết học theo chủ nghĩa duy vật Anh vẫn không thể
tránh được ảnh hưởng của những tư tưởng thần học và siêu hình. Dù vậy về sau,
Locke theo phương pháp quy nạp của Bacon đã sáng lập ra một nền tâm lý học thực
nghiệm, nhấn mạnh thêm sự quan sát và loại bỏ đi phần nào tính thần học và siêu
hình.
Bacon quả thật đã có nhiều đóng góp vĩ đại nhưng thật ra ông còn có thể vĩ
đại hơn thế rất nhiều. Về cuối đời ông cảm thấy hối tiếc vì đã không từ bỏ chính trị
sớm hơn để dành thời gian cho văn chương, khoa học mà đặc biệt là triết học. Cũng
vì thế mà ta có thể nói chính sự nghiệp chính trị của Bacon đã phần nào làm giảm đi
sự vĩ đại của ông.
2.2 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của T.Hobbs:
Về mặt bản thể luận, Hobbs cho rằng thế giới vật chất tồn tại khách quan,
không do thần thánh sang tạo ra cũng không phụ thuộc vào ý thức con người. Song,
thế giới tự nhiên mà ông nói tới là thế giới của những vật thể riêng lẻ, mọi sự vật
đều được quy về quan hệ số lượng cơ học, toán học vì vậy là một thế giới không
thuộc tính và không màu sắc. Đây là một bước lùi so với bức tranh thế giới nhiều
tính chất và màu sắc của Bacon [5,225]
Một điểm hạn chế khác của Hobbs là ông tuy coi vật chất luôn vận động .
Song, ông quy vận động của vật chất về vận động cơ học, đó là sự di chuyển giản
đơn máy móc của các vật thể trong không gian. Điều này bộc lộ rõ tính siêu hình
máy móc trong những quan điểm của ông.
Mặc dù có những hạn chế như vậy nhưng tư tưởng của Hobbs vẫn có nhiều
điểm tích cực. Ông phê phán tính thần học và học thuyết về “chân lý hai mặt” trong
tư tưởng của Bacon. Ông là một nhà vô thần, mọi lực lượng siêu nhiên đều bị loại
trừ ra khỏi triết học của ông. Theo ông gốc rễ của tôn giáo là do sự sợ hãi, do sự ngu
dốt đẻ ra, ý niệm “thiên thần” chỉ là một hình ảnh bịa đặt, lòng tin vào thượng đế
hay tôn giáo chỉ là sự tưởng tượng của con người. Tuy nhiên ông lại cho rằng cả con
người và nhà nước đều cần đến tôn giáo. Con người cần tôn giáo vì tôn giáo mang
lại cho con người niềm tin. Còn nhà nước cần tôn giáo để làm “cái dây trói buộc
trong xã hội” để khuyên răng mọi người tuân theo chuẩn mực của nhà nước. Nhà
thờ phải phục tùng nhà nước chứ không phải nhà nước phục tùng nhà thờ [5,226]
2.3 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của J.Locke:
Sau Bacon và Hobbs, Locke đã kế thừa và phát triển thêm những tư tưởng
chủ nghĩa duy vật anh. Locke cho rằng mọi kinh nghiệm đều bắt đầu tư cảm giác.
Song khi lập luận về kinh nghiệm, Locke đã không đứng vững trên lập trường duy
vật. Ông cho rằng kinh nghiệm con người được chia thành hai loại. Đó là kinh
nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả của
sự tập hợp các cảm giác phát sinh do tác động của sự vật khách quan lên giác quan
con người. Còn kinh nghiệm bên trong là tập hợp các cảm giác bên trong con người,
hay những phản xạ, những cảm xúc cá nhân không liên quan đến sự vật khách quan.
Đây chính là kẽ hở trong lý luận về nhận thức của ông [5,227]. Tính không triệt để
trong chủ nghĩa duy vật của Locke còn thể hiện khi ông phân biệt một cách cực
đoan giữa “đặc tính có trước” và “đặc tính có sau”. [5,228]
Mặc dù triết học của Locke vẫn mang tính chất không triệt để và có những
điểm nhượng bộ chủ nghĩa duy tâm nhưng trong những luồng tư tưởng này chủ
nghĩa duy vật vẫn chiếm ưu thế. Vì lẽ đó những tư tưởng của ông vẫn được các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVIII kế thừa và phát triển [5,229]
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh thế kỷ XVII là triết học của giai cấp tư sản
đang lên, là ngọn cờ lý luận có chức năng chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách
mạng tư sản sau đó. Trường phái này đề cao vai trò triết học và khoa học thực
nghiệm, đặc biệt trong việc nhận thức tự nhiên nhằm giúp con người làm chủ giới tự
nhiên. Các nhà triết học đứng trên lập trường duy vật vô thần, chống lại thế giới
quan duy tâm, tôn giáo của nhà thờ. Do những hạn chế của thời đại nên thế giới
quan của họ nhìn chung vẫn còn mang tính siêu hình, máy móc và có phần thỏa hiệp
với xu hướng duy tâm.
Về con người, họ cho rằng con người cũng là sản phẩm của tự nhiên, là thể thống
nhất giữa cơ thể và ý thức. Họ bác bỏ linh hồn bất tử. Dù thế họ vẫn có cái nhìn máy
móc về con người, lấy yếu tố bản năng để giải thích bản chất con người.
Về nhận thức, các nhà triết học duy vật kinh nghiệm Anh đã nhận ra được một
phần nguồn gốc của nhận thức. Họ đề cao nhận thức cảm tính, của tư duy và thực
nghiệm khoa học nhưng lại chưa thấy được mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn.
Về chính trị - xã hội, họ chống lại tư tưởng và trật tự phong kiến, đề cao nhà nước
dân chủ, tuyên truyền tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản. Đáng tiếc là họ vẫn
chưa nhận ra được bản chất của nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị.
Về vấn đề tôn giáo, họ vạch trần bản chất và tính phản tiến bộ của tôn giáo nhưng
họ chỉ thấy nguồn gốc nhận thức mà chưa thấy được nguồn gốc xã hội của nó.
Từ các luận điểm trên ta có thể kết luận: chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh vẫn
còn mang những hạn chế của chủ nghĩa duy vật tầm thường. Tính không triệt để đó
đã được thể hiện thông qua cách mạng tư sản Anh. Mặc dù vậy những đóng góp của
trường phái này đối với triết học và khoa học thực nghiệm là rất lớn, như TS Bùi
Văn Mưa đã nhận xét, cùng với trường phái duy lý của R.Descartes, đây được xem
như hai thanh ray của đoàn tàu đưa nhân loại tiến thẳng vào kỷ nguyên mới: Kỷ
nguyên của văn minh và phát triển !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần 1-Đại cương về lịch sử triết học, Lưu
hành nội bộ, Tp.HCM, 2011.
[2] Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần 2-Các chuyên đề về triết học MácLênin, Lưu hành nội bộ, Tp.HCM, 2011.
[3] Bùi Văn Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb Đại học Quốc
gia Thành Phố Hồ Chí Minh, 2008.
[4] Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2001.
[5] Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.
[6] Will Durant. Câu chuyện triết học qua chân dung Platon, Aristote, Bacon, Kant,
Spinoza, Voltaire, Spencer, Nxb Đà Nẵng, 2000.