1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Chương 3: Áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 105 trang )


Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005, tổng giá

trị TTCK việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng. TTCK Việt Nam có 4.500 tỷ đồng cổ

phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ,

trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch .Trong năm

2005, tốc độ tăng trưởng của TTCK gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ

đồng, giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt hơn 1%.

3.1.2 Giai đoạn 2006 – 2010:

Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”,

tạo cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi

động tại cả 3 “sàn”: SGDCK Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị

trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 TTCK Việt

Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự bừng dậy của

thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các NĐT trong và ngoài nước. Năm

2006, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP.

Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng

152,4% .TTCK Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm. Tổng giá

trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các

NĐT nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của

toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là

những cổ phiếu được phát hành theo Luật DN là chính. Trên thị trường phi tập trung,

tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số

công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài

khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước.

Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005

lên 800 điểm cuối 2006. Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư

vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả

những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện

tượng “bong bóng” là có thật.

Năm 2007 – năm đầu tiên Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)

và là năm chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Luật

74



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát

triển và tăng cường khả năng hội nhập vào TTTC quốc tế. Tính công khai, minh bạch

của các tổ chức niêm yết được tăng cường. TTGDCK TPHCM chính thức được chuyển

đổi thành SGDCK TPHCM vào giữa năm 2007, đồng thời SGDCK đã thực hiện giao

dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh

từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển. Tính đến thời điểm

31/12/2007, có tổng cộng 80 CTCK được ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN)

cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 69 công ty đã chính thức đi vào hoạt động (59

công ty hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và 10 công ty trách nhiệm hữu hạn

trực thuộc các NHTM cổ phần và quốc doanh). Thu hút được một số lượng lớn các

NĐT cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, đến cuối năm 2007 toàn thị trường đã có

tổng cộng 327.000 tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại các CTCK (tăng 279% so

với cuối năm 2006). Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm,

HASTC-Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt

được mức tăng trưởng là 23,3%; HASTC-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập

vào cuối năm 2006. Năm 2007, lượng vốn hóa thị trường đạt 492.900 tỷ đồng, tương

đương khoảng 43,7% GDP

Sang năm 2008 với sự ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, TTCK Việt

Nam đã có một năm gặp rất nhiều khó khăn. Các thông tin tác động xấu tới tâm lý

NĐT chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát,

chính sách thắt chặt tiền tệ của ngân hàng nhà nước (NHNN), sự leo dốc của giá xăng

dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK. Trong

năm 2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn chứng

khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các

chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu

thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện

cho các DN niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ.... Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục

được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc

biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước

trong các DN đã cổ phần hóa (CPH), chưa kể hàng loạt ngân hàng, CTCK, DN... phát

75



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng TTCK có nguy cơ thừa

"hàng". Thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới

mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ

quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT. Tính đến thời điểm 31/12/2008

chỉ số Vnindex đã giảm 605,4 điểm tương đương 65% so với thời điểm cuối năm 2007,

giá trị vốn hóa thị trường của các cổ phiếu đang niêm yết đạt hơn 225,300 tỷ đồng.

Đến năm đầu năm 2009 Cuộc khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu

đã tác động mạnh tới Việt Nam, khiến nền kinh tế Việt Nam rơi vào suy giảm xuống

mức đáy 235,5 điểm trong quý I. Kể từ đó cho đến cuối năm thị trường đi lên cùng sự

hồi phục của nền kinh tế. VN-Index đóng cửa năm 2009 ở mức 494 điểm, so với đáy

235 điểm VN-Index đã tăng trưởng 110,21% kể từ đáy. Còn nếu tính theo mức điểm

thấp nhất 235 điểm và mức điểm cao nhất 633 điểm thì VN-Index đã tăng gần 170%.

Đây là mức tăng mạnh nhất trong số các TTCK thế giới. Như vậy có thể nói rằng

TTCK Việt nam đã tạo đáy đi lên trong năm 2009. Năm 2009 lần đầu tiên TTCK Việt

Nam bắt đầu có sự liên hệ chặt chẽ với TTCK thế giới. Sự gắn kết biểu hiện rõ nét nhất

trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 8. Sự gắn kết này là một tín hiệu tích cực vì nó

cho thấy TTCK Việt Nam và kinh tế Việt Nam phát triển hơn và đã trở thành một bộ

phận của nền kinh tế thế giới chứ không còn là thị trường nhỏ và biệt lập. Trong năm

2009, thị trường mang nặng tâm lý bầy đàn. Biểu hiện rõ nhất là khi tăng thì gần như

toàn bộ các mã tăng và ngược lại. Khi thị trường tăng mạnh thì người mua nhất là NĐT

nhỏ lẻ tranh mua giá trần. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để cổ phiếu dễ dàng bị thao

túng làm giá lên hoặc đẩy giá xuống tuy theo mục đích. Tuy nhiên hiện nay NĐT trong

nước trên thị trường đã tích lũy được nhiều kiến thức và kinh nghiệm sau quá trình

đầu tư trong những năm qua. Kinh nghiệm cũng như kiến thức đầu tư được nâng lên sẽ

giúp cho thị trường phát triển lành mạnh và giảm rủi ro cho NĐT. NĐT nước ngoài

ngày càng giảm bớt vai trò chi phối thị trường của mình. NĐT trong nước đang trở nên

chủ động và ngày càng độc lập hơn với NĐT nước ngoài trong các quyết định đầu tư.

Nếu như trước đây các NĐT trong nước thường coi động thái mua vào bán ra của NĐT

nước ngoài là một trong những “kim chỉ nam” cho việc mua bán của mình thì năm nay

điều này đã trở nên tương đối độc lập. Sự độc lập này trước hết do NĐT trong nước đã

76



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



tích lũy được nhiều kinh nghiệm và kiến thức hơn nên có thể tự ra được quyết định đầu

tư độc lập.

Đầu năm 2009, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có diễn biến xấu khiến VNIndex kéo dài xu hướng giảm, đến ngày 24/2 chỉ còn 235,5 điểm, mức thấp nhất kể từ

tháng 3/2005. Sự thua lỗ, hoảng loạn của NĐT sau đó đã được bù đắp khi VN-Index

phục hồi, đạt 624,1 điểm vào ngày 22/10. So với ngày 24/2, VN-Index cao gấp 2,65

lần, đồng nghĩa với mức tăng 265%. Tính cả năm, VN-Index tăng 57%, kết thúc năm ở

494,77 điểm. Sự góp mặt của các “đại gia” mới niêm yết trên sàn chứng khoán năm

2009 đã giúp mức vốn hóa thị trường tăng lên đáng kể.

Quy mô giao dịch chứng khoán 2006 – 2009



Năm 2010, trong 9 tháng đầu năm thị trường xuất hiện 3 đợt sóng mạnh.





Đợt sóng thứ nhất kết thúc vào ngày 07/01/2010 với mức đỉnh của VN-Index



đạt được là 543.46 điểm, sau đó lùi sâu về mức 477.59 điểm vào ngày 22/01.





Đợt sóng thứ 2, thị trường phục hồi lên 531.86 điểm vào ngày 15/03, sau đó lùi



về 499.21 điểm vào ngày 31/03.





Đợt sóng thứ 3 đưa VN-Index lên mức điểm cao nhất trong 9 tháng năm 2010



với số điểm là 549.12 điểm vào ngày 04/05.

Kể từ mức điểm cao nhất của đợt sóng thứ 3 thị trường giảm mạnh về 423.89, mức

thấp nhất kể từ ngày 22/07/2009. Sau đó, thị trường đã có một đợt phục hồi nhẹ và hiện

VN-Index giảm còn 445.21 điểm (ngày 22/10/2010).

Điểm đáng lưu ý là các đợt sóng của thị trường thường gắn liền với cácthông tin vĩ

mô và chính sách quan trọng của Chính phủ. Điển hình như đợt suy giảm mạnh của thị

77



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



trường từ tháng 5 đến nay được xem có nguyên nhân chính là do chính sách tăng

cường an toàn cho hệ thống tài chính với bằng cách ban thành Thông tư 13 của NHNN.

Ngoài ra, biến động của tỷ giá và lạm phát cũng ảnh hưởng mạnh đến tâm lý nhà đầu

tư trên thị trường chứng khoán. Một vài đợt sóng của thị trường gắn liền với sự biến

động mạnh của những cổ phiếu có mức vốn hoá vừa và nhỏ. Các bluechips và cổ phiếu

ngân hàng hầu như không tạo ra một đợt sóng nào trên thị trường.



Hình 3.1: Số lượng CTCK giai đoạn 2000-2010

Tính từ đầu năm đến ngày 08/10/2010 đã có 153 công ty đăng ký niêm yết, trong

đó 66 trên HoSE và 87 trên HNX. Tổng số lượng cổ phiếu niêm yết của các công ty

mới lên sàn là 3.38 tỷ đơn vị và đạt giá trị thường 77 nghìn tỷ đồng vào ngày

08/10/210, bằng 13% giá trị cả thị trường.

Khối ngoại tăng cường mua ròng khá mạnh những cổ phiếu niêm yết trên sàn, đặc

biệt là cổ phiếu bluchips trên HoSE. Tổng giá trị mua ròng của khối ngoại tính từ đầu

năm 2010 đến ngày 11/10/2010 đã lên tới 10,229 tỷ đồng trên HoSE và 609 tỷ đồng

trên HNX. Giá trị mua ròng này lớn gần gấp đôi so với năm 2009. Điều này cho thấy

dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vẫn không ngừng đổ vào Việt Nam.



78



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Khối ngoại mua ròng khá mạnh nhưng chỉ tập trung vào một số mã cổ phiếu chủ

chốt trên sàn. Trên HoSE, HAG của Hoàng Anh Gia Lai được khối ngoại mua ròng

đến 1,521 tỷ đồng, tiếp theo là BVH 893 tỷ đồng, KBC 793 tỷ đồng. Các mã cổ phiếu

được khối ngoại ưa thích khác là VNM, DIG, SJS, HPG. Trong khi đó khối ngoại bán

ròng các mã cổ phiếu VSH (247 tỷ đồng), ITC (193 tỷ đồng), REE (145 tỷ đồng). Trên

sàn HNX, trong 9 tháng mã cổ phiếu được khối ngoại mua nhiều nhất là PVS (145 tỷ

đồng), KLS (130 tỷ đồng), PVX (112 tỷ đồng), trong khi đó mã cổ phiếu bị bán ròng

nhiều nhất là AAA (45 tỷ đồng).



Hình 3.2: Thống kê số mã chứng khoán niêm yết (2000 – 2010)

Chỉ số sàn TP HCM chốt tuần cuối của năm 2010 bằng kết quả lạc quan. Vn-Index

lấy lại gần hết số điểm đã mất ở tuần trước (11,9 điểm), vượt lên trên ngưỡng kháng cự

480, đạt 484,66 điểm. Kết quả này cho thấy, Vn-Index chỉ mất 3% giá trị so với phiên

cuối cùng của năm 2009 và so với phiên đầu tiên năm 2010 giảm khoảng 6%.

HNX-Index ghi nhận tuần giao dịch thành công, tiến 2,93 điểm, thay vì giảm đến

8,51 điểm như tuần trước. Chỉ số của sàn Hà Nội kết thúc năm tại 114,24, giảm khoảng

30% so với phiên cuối cùng của năm ngoái. Bình quân trong tuần có 41,44 triệu chứng

khoán sang tay, tương đương 867,96 tỷ đồng.



79



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



UPCoM-Index kết thúc phiên cuối năm ở 45,19 điểm, giảm 18% so với phiên đầu

tiên năm 2010. Thị trường giao dịch cổ phiếu công ty đại chúng chưa niêm yết ghi

nhận mức trung bình 362.000 cổ phiếu trao tay, trị giá 4 tỷ đồng, ở tuần này.

3.2 Sự cần thiết của ứng dụng giao dịch quyền chọn trong TTCK Việt Nam:

3.2.1 Tạo công cụ bảo vệ lợi nhuận cho nhà đầu tư:

Như đã giới thiệu ở phần trên, NĐT trên TTCK có thể cố định giá bán, giá mua

chứng khoán của mình qua việc sở hữu quyền chọn. Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ

thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các NĐT có thể bảo vệ được lợi

nhuận trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc ứng dụng giao

dịch quyền chọn đem lại cho NĐT trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới.

Quyền chọn chứng khoán phát hành trên cơ sở cổ phiếu đã có nhằm nhiều mục tiêu

khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các quyền chọn

chứng khoán sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị cổ phiếu đầu tư hoặc để đảm bảo

rằng nếu giá của cổ phiếu có thay đổi bao nhiêu thì các của các công cụ phái sinh vẫn

sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Khi TTCK biến động từng giây từng phút thì việc nắm

trong tay quyền chọn chứng khoán là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro.

Bên cạnh việc giúp NĐT quản lý rủi ro, quyền chọn chứng khoán cũng được dùng

để đầu cơ khi NĐT hướng về sự dao động giá trong tương lai. Ở thời điểm hiện tại,

quyền chọn chứng khoán nếu được thực hiện sẽ giúp NĐT giảm thiểu được rủi ro. Hơn

nữa, nhà đâu tư cũng chưa cần nguồn vốn lớn để thực hiện mà chỉ trả một phần nhỏ

cũng như số tiền ký quỹ nhỏ hơn giá trị hợp đồng.

Trong bối cảnh thị trường có sự biến động mạnh như hiện nay thì việc thực hiện

quyền chọn chứng khoán là rất cần thiết và có khả năng góp phần ổn định thị trường

hơn. Hiện NĐT chỉ có thể mua chứng khoán và chờ giá lên để bán kiếm lời. Liệu có

NĐT nào dám bỏ nhiều tiền để đầu tư vào một loại chứng khoán mà họ và thị trường

cho rằng nhiều khả năng chứng khoán đó sẽ giảm giá. Chính vì vậy trong giai đoạn thị

trường giảm giá, khi có yếu tố bất lợi NĐT sẽ ào ạt bán chứng khoán ra trong khi

lượng cầu rất yếu, đẩy thị trường giảm giá mạnh hơn mức cần thiết, gây hoảng loạn và

bất ổn tâm lý đầu tư trên thị trường. Tình trạng này đã từng xảy ra tại Việt Nam trong

thời gian qua. Nếu có quyền chọn bán NĐT sẽ không vội vã bán ồ ạt tức thì vì gần như

80



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



họ đã mua bảo hiểm về giá. Nếu chứng khoán tăng trở lại, họ có thể không bán mà chỉ

chịu mất phí (thường thấp hơn rất nhiều so với việc thực hiện quyền). Trường hợp giá

giảm hơn so với giá trong quyền chọn bán, họ sẽ bán với giá đã ghi trong hợp đồng.

Thực tế các nước cho thấy, quyền chọn rất được các NĐT ưa chuộng bởi NĐT ít vốn

cũng có thể mua quyền chọn, thay vì phải bỏ ra khoản tiền lớn để mua chứng khoán

chờ tăng giá và bán ra hưởng chênh lệch, nếu không họ chỉ mất một khoản phí nhỏ.

3.2.2 Thúc đẩy phát triển chứng khoán Việt Nam:

Quyền chọn chứng khoán vừa là công cụ bảo vệ lợi nhuận vừa là công cụ giảm

thiểu rủi ro hữu hiệu và đồng thời là một loại hàng hóa có thể mua bán trên TTCK; nên

khi ứng dụng giao dịch quyền chọn sẽ làm cho TTCK rất sôi động. Với vai trò là công

cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro quyền chọn tạo tâm lý an toàn hơn trong đầu

tư vào cổ phiếu, do đó thu hút được thêm nhiều NĐT còn e ngại về mức độ mạo hiểm,

rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị trường. Với vai trò là một hàng hóa trên

TTCK, quyền chọn chứng khoán mang đến khát khao kiếm lợi nhuận nên khi quyền

chọn được ứng dụng giao dịch, nhiều NĐT sẽ tham gia thị trường để kinh doanh quyền

chọn. Khi nhiều NĐT tham gia thị trường sẽ làm cầu hàng hóa chứng khoán tăng. Điều

này làm cho thị trường trở nên sôi động và cơ hội phát triển, mở rộng thị trường là rất

cao. Hiện nay, TTCK Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường nhỏ bé

nhất trên thế giới. Việc ứng dụng quyền chọn sẽ giúp hoàn thiện dần cơ cấu hàng hóa

và mang lại một vị thế mới cho TTCK Việt Nam.

3.2.3 Tác động gián tiếp đến các công ty niêm yết trên TTCK:

Để quyền chọn chứng khoán một công ty được niêm yết thì công ty đó phải đáp

ứng được những điều kiện của UBCKNN đề ra. Hơn nữa, các công ty niêm yết không

muốn thấy quyền chọn bán cổ phiếu công ty mình được mua bán liên tục bởi vì đó là

dấu hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá cổ phiếu công ty mình sẽ đi xuống và điều

này cũng cho thấy uy tín của công ty trên thị trường đang giảm đần. Như vậy, công ty

có thể nhìn vào xu hướng giao dịch quyền chọn trên thị trường mà nhận biết được sự

đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp công ty có những điều

chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín của công ty trên thị trường.

Như vậy, quyền chọn giúp NĐT giám sát gián tiếp hoạt động của các công ty niêm yết.

81



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



Khi có thêm người giám sát, đòi hỏi công ty niêm yết phải nổ lực hơn trong hoạt động

kinh doanh

3.3 Ứng dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường Việt Nam:

3.3.1 Những điều kiện khi áp dụng quyền chọn chứng khoán trong TTCK

Việt Nam:

3.3.1.1 Các điều kiện thuận lợi:

 Tiềm năng phát triển của TTCK Việt Nam lớn:

TTCK Việt Nam đã phát triển tương đối đủ lớn và đáp ứng những yêu cầu cơ bản

cho việc áp dụng quyền chọn chứng khoán. Đó là tính thanh khoản trên TTCK ngày

càng cao, hàng hóa tăng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, đã xuất hiện nhiều công

ty cổ phần đại chúng lớn, sắp tới đây sẽ tiến hành cổ phần hóa gắn kết niêm yết trên

TTCK các công ty hàng đầu, các tổng công ty lớn. Khi cổ phiếu của các công ty này

được niêm yết trên sàn sẽ là nguồn hàng chất lượng thu hút nhiều NĐT trong cũng như

ngoài nước tham gia vào thị trường, đây là nguồn cung về hàng cho TTCK phát triển.

Sức cầu về đầu tư chứng khoán tại Việt Nam đang cao được đánh giá là có triển

vọng lớn, điều đó được thể hiện qua khả năng có thể tham gia thị trường của các NĐT

trong nước, NĐT nước ngoài, và các tổ chứng đầu tư. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc

ra đời quyền chọn.

 Các yêu cầu ngày càng cao về công khai và minh bạch hóa thông tin:

Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao, vấn

đề công khai hóa, minh bạch hóa thông tin thị trường, nền kinh tế ngày càng được đòi

hỏi, yêu cầu cao hơn. Việc thành lập thị trường quyền chọn nói chung và thị trường

quyền chọn chứng khoán nói riêng ở Việt Nam sẽ giúp các hoạt động này diễn ra

nhanh và mạnh mẽ hơn. Khi đó, các NĐT sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường một cách

công bằng hơn so với trước đây, chúng ta sẽ giảm được độc quyền, sự phân biệt và các

giao dịch bí mật trong thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt động quảng

bá sản phẩm của các ngân hàng, CTCK…

Ở Việt Nam, do chưa từng phải chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ. Do chính sách quản lý các giao dịch vốn những năm trước đây còn chủ yếu dựa

vào cơ chế hành chính, tự phong toả là chính, mức độ tự do hoá rất hạn chế..., nên việc

82



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



áp dụng các công cụ quyền chọn còn chưa trở thành nhu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, hiện

nay nền kinh tế Việt Nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ,

đang có rất nhiều thay đổi về mặt chính sách.

Mở cửa thị trường vào không gian WTO, áp dụng các luật chơi chung với quốc tế,

lãi suất đã được tự do hoá; lộ trình tự do hoá tài chính đã đi qua rất nhiều bước và trên

thực tế, các luồng vốn đã tương đối tự do chảy vào và chảy ra khỏi Việt Nam cả trực

tiếp và gián tiếp với qui mô, tần suất ngày càng lớn; chính sách tỷ giá cũng từng bước

linh hoạt theo tín hiệu thị trường... Những bối cảnh trên đã, đang là những nhân tố

khách quan thúc đẩy các bên tham gia TTTCViệt Nam phải đổi mới tư duy, nhận thức

về vai trò của thị trường phái sinh nói chung và thị trường quyền chọn chứng khoán nói

riêng trong công tác phòng ngừa rủi ro của mình.

 Có định hướng của cơ quan quản lý nhà nước:

Trong thời gian qua TTCK Việt Nam đã trải qua thời gian khủng hoàng dài, thị

trường sụt giảm nghiêm trọng. Vì vậy UBCKNN và các cơ quan chính phủ đang có xu

hướng quan tâm đến việc xây dựng đề án giải pháp phòng ngừa rủi ro và xử lý khủng

hoảng trên TTCK, và phương án thành lập thị trường phái sinh chứng khoán. Đặc biệt,

việc thành lập thị trường quyền chọn chứng khoán trong giai đoạn hiện nay đang là

một giải pháp khả thi. Hiện nay, các thị trường toàn cầu nói chung và thị trường Việt

Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro, và đây cũng là thời

điểm tốt để một TTCK non trẻ, với nhiều biến động về giá trong thời gian qua như Việt

Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình thức giao dịch quyền chọn này. Việc

triển khai quyền chọn chứng khoán sẽ tạo cơ hội cho TTCK vực dậy trong những giai

đoạn khó khăn như thời gian vừa qua.

 Kinh nghiệm của các nước đi trước:

Với lợi thế của nước đi sau Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong việc xây

dựng sàn giao dịch quyền chọn ở các nước trên thế giới. Giao dịch quyền chọn trên thế

giới đã ra đời từ lâu và đang rất phát triển. Do đó, Việt Nam có thể rút ra những bài học

kinh nghiệp từ các nước đi trước để vận dụng vào Việt Nam một cách phù hợp với tình

hình và điều kiện của mình. Hơn nữa hiện nay tại Việt Nam cũng đẫ triển khai giao



83



Chuyên đề: “Quyền chọn chứng khoán”



GVHD: Th.S Dương Kha



dịch quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng vì vậy chúng ta cũng có thể rút được kinh

nghiệm từ chính việc triển khai các nghiệp vụ này.

 Ý thức về quản lý rủi ro của các NĐT đã tăng qua biến động của thị trường

trong thời gian qua

Trong thời gian qua TTCK Việt Nam đã sụt giảm nghiêm trọng khiến nhiều NĐT

thua lỗ nặng, vì vậy các chủ thể tham gia TTCK đã ngày càng nhận thức rõ về việc

phải nâng cao vấn đề quản lý rủi ro, về lợi ích của các công cụ phái sinh nói chung,

quyền chọn nói riêng và sẵn sàng đón nhận đón nhận sự ra đời của một thị trường

quyền chọn hỗ trợ cho việc kinh doanh cũng như đầu tư của riêng mình. Thêm vào đó

là sự quan tâm, hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước ngày càng cao đối với thị trường quyền

chọn. Đây có thể xem như là thuận lợi lớn nhất cho sự phát triển của thị trường quyền

chọn trong tương lai.

3.3.1.2 Các khó khăn còn tồn tại:

Cho đến nay đã có một số tiền đề cho việc ra đời cho việc ra đời quyền chọn trên

TTCK Việt Nam. Song bên cạnh đó còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết trước khi cho

ứng dụng quyền chọn vào TTCK.

 Khung pháp lý chưa hoàn chỉnh: Luật chứng khoán mới ra đời có nhiều điểm

nổi bật nhưng vẫn còn nhiều thiết sót, chưa chặt chẽ để có thể đảm bảo cho một thị

trường chứa định nhiều rủi ro biến động như TTCK Việt Nam thời gian qua. Kinh

nghiệm của các nước cho thấy việc áp dụng giao dịch quyền chọn vào một thị trường

mới cần nghiên cứu kỹ lưỡng và xây dựng những khuôn khổ pháp lý chuẩn mực cho

các hoạt động này. Đến nay thì Việt Nam vẫn chưa có quy định, khuôn khổ pháp lý

nào cho giao dịch quyền chọn chứng khoán.

 Hạ tầng kỹ thuật chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của giao dịch quyền chọn:



Trong thời gian qua, vấn đề công nghệ áp dụng tại các CTCK rất khác nhau, chúng ta

chưa có sự đồng bộ về công nghệ. Ví dụ như việc UBCKNN quy định các CTCK phải

liên kết với các ngân hàng để quản lý tiền của NĐT, việc thực hiện này cũng tương đối

chậm, vì việc trang bị hệ thống công nghệ rất tốn kém và qui định mới cũng gây ra một

số khó khăn trong công tác quản lý tài khoản khách hàng. Đối với nghiệp vụ quyền

chọn, việc trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ càng phức tạp và tốn kém hơn, đặc biệt

84



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×