Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.74 MB, 126 trang )
Mô hình này được xây dựng dựa trên phương pháp nghiên cứu tài liệu và
phương pháp chuyên gia.
Hình có dạng elip bên trái biểu diễn CTMT lớp 10 Chuẩn, các số thứ tự 1, 2,
3, 4, ... là các thành tố của nó. Trong đó, chúng tôi tập trung tìm hiểu về nội
dung CTMT lớp 10 Chuẩn, SGK môn Toán 10, điều kiện dạy và học Toán 10
và phương pháp dạy và học môn Toán 10.
Hình có dạng elip bên phải sơ đồ biểu diễn HS THPT tỉnh Thái Nguyên, các
số thứ tự 1, 2, 3, ... là các thành tố của nó. Trong đó, chúng tôi tập trung làm
rõ về: Đặc điểm tâm sinh lý, học lực, điều kiện và hoàn cảnh gia đình của học
sinh THPT tỉnh Thái Nguyên.
Hình thoi ở giữa 2 hình elip biểu diễn sự PH của CTMT lớp 10 Chuẩn đối với
HS THPT tỉnh Thái Nguyên qua các đánh giá của HS, GV, CBQL và PHHS.
Trong các đánh giá này đều có các item có thể cung cấp các thông tin về thái
độ học tập môn toán 10 của HS.
2.2. Đặc điểm chương trình môn toán 10 chuẩn
2.2.1. Tăng cường tính thực tiễn và sư phạm, giảm nhẹ yêu cầu quá chặt lí
thuyết
Ở bậc phổ thông học sinh (HS) cần phải được cung cấp những kiến thức cần
cho cuộc sống và cung cấp công cụ để học tốt các môn học.
Đối với cuộc sống, những kiến thức về Thống kê rất cần thiết, dù sau này ra
đời học sinh làm nghề gì hay học tiếp lên các bậc học cao hơn.
Vì vậy, tiếp nối một số kiến thức ban đầu về Thống kê mô tả ở bậc Trung học
sơ sở (THCS), sang bậc THPT học sinh phải được cung cấp những hiểu biết
về xác suất và thống kê một cách có hệ thống và gắn với thực tiễn trong xã
hội nước ta [5].
20
Về mặt sư phạm, học sinh chỉ mới làm quen lần đầu với một số kiến thức của
toán học cấp cao như phép tính vi tích phân, phương pháp tọa độ,…, do đó
cần phải kết hợp hai cách tiếp cận trực quan và chứng minh chặt chẽ. Chỉ khi
lên bậc đại học, học sinh mới có điều kiện học tập cách suy luận trực quan
nhưng không được vi phạm tính chính xác.
Mặt khác, lâu nay có một số kiến thức đưa vào trong nội dung chương trình
chỉ nhằm cung cấp phương tiện để giải một số loại bài tập nào đó chứ không
cần thiết cho cuộc sống cũng như cho việc học tập sau này. Những kiến thức
như vậy sẽ bị loại bỏ để không gây nặng nề cho học sinh, không làm cho việc
giải bài tập toán trở nên quá khó [5].
2.2.2. Nội dung chương trình đáp ứng nhu cầu môn học, đồng thời đáp ứng
yêu cầu một số môn học khác như Vật lí, Sinh học lớp 10
Ngay từ đầu lớp 12 môn Vật lí đã cần đến khái niệm đạo hàm. Tương
tự, đầu lớp 12 môn Sinh học cần khái niệm xác suất nên đưa nội dung này
vào lớp 11. Do đó chương trình môn Toán phải thay đổi, sắp xếp cho phù
hợp. Một số vấn đề được tinh giản, dành chỗ cho nội dung cần đưa lên trước,
đồng thời bổ sung một số nội dung mà trong các chương trình trước đây còn
thiếu [5].
2.2.3. Hội nhập
Các kiến thức mà chúng ta đưa vào chương trình chuẩn cũng phải phù
hợp ở mức độ nhất định so với mặt bằng kiến thức chung bậc THPT của các
nước trên thế giới. Ngoài ra trong việc trình bày hệ thống số trước đây ta chỉ
dừng lại ở số thực, bây giờ hoàn chỉnh hệ thống số bằng cách đưa vào khái
niệm số phức [5].
21
2.3. Đặc điểm sách giáo khoa Toán 10 theo chương trình chuẩn
SGK theo chươg trình chuẩn môn Toán được biên soạn theo một số định
hướng như sau:
2.3.1. Hỗ trợ việc đổi mới phương pháp dạy và học
Đây là định hướng chủ yếu trong việc biên soạn SGK theo chương trình môn
Toán. Từ trước đến nay SGK được viết theo lối diễn giảng, ví dụ áp dụng.
Cách viết đó có hai nhược điểm:
Một là coi mọi đối tượng học sinh đều như nhau, không phân biệt học sinh
khá và học sinh yếu. Chỉ có những giáo viên tâm huyết với nghề mới đầu tư
suy nghĩ để tìm ra cách giảng phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
Hai là tạo cho thầy và trò thói quen thầy giảng trò ghi thầy truyền thụ áp đặt,
trò tiếp thu thụ động. Cách dạy và học này không thể đạt hiệu quả cao [6].
Để khắc phục các nhược điểm này, trong SGK theo chương trình môn Toán
chỉ ra các hoạt động tại từng thời điểm để thầy và trò xem xét. Ôn kiến thức
cũ, nêu lí do xuất hiện các khái niệm mới và nhất là đặt bài toán để học sinh
tự mình khám phá, giải quyết; nêu các ví dụ gợi ý phương pháp, hoặc áp dụng
trực tiếp lí thuyết...
Khi sử dụng SGK, nội dung trong các hoạt động này không nhất thiết phải
thực hiện như nhau cho mọi lớp, mọi đối tượng mà tùy tình hình. Nói chung,
cách thực hiện các hoat động này rất đa dạng và ở mức độ khác nhau [5].
Như vậy mỗi hoạt động SGK chỉ là một gợi ý của tác giả, chủ yếu qua đó
muốn nêu mục đích của hoạt động đó, còn nội dung hoạt động giáo viên có
thể thay đổi theo tình hình cụ thể.
Rõ ràng để dùng SGK mới có hiệu quả giáo viên suy nghĩ và làm việc nhiều
hơn, nhưng đã đến lúc chúng ta không thể bằng lòng với cách dạy và học cũ
22
được nữa [6].
2.3.2. Giới thiệu văn hóa Toán học, làm cho Toán học gần với đời sống
Phải nói rằng đây là một việc khó. Toán vốn nối tiếng khô khan với khái niệm
trừu tượng, bất buộc phải làm việc nghiêm túc mới tiếp thu được. SGK đã
được đưa vào những chuyện lịch sử Toán học, mong làm cho cuốn sách gần
với đời sống hơn. Các ví dụ, bài toán cũng cố gắng lấy trong những vấn đề
thời sự trong học đường và xã hội [5].
2.3.3. Bước đầu giới thiệu cách sử dụng máy tính bỏ túi và đưa các bài trắc
nghiệm
Lâu nay việc sử dụng máy tính bỏ túi trong nhà trường ở nước ta chưa được
phổ biến. Đây là một công cụ không thể thiếu cho hoạt động của mọi người,
từ kinh doanh, nghiên cứu khoa học đến các công việc thường nhật. Vì vậy,
việc giúp cho học sinh có kĩ năng sử dụng máy tính bỏ túi là một việc làm cần
thiết. Do đó trong các chương mục của SGK theo chương trình chuẩn môn
Toán đều đề cập việc sử dụng máy tính bỏ túi, như để giải phương trình, tính
số lượng giác các góc,… Nếu không dùng máy tính bỏ túi thì việc tính toán
với những số thập phân sẽ mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên không phải học sinh nào cũng có máy tính bỏ túi, nhất là ở các
vùng còn khó khăn. Do đó những kiến thức và bài tập liên quan đến máy tính
bỏ túi hầu như không bắt buộc, nếu có điều kiện thì thực hiện [5].
Để giúp cho học sinh bước đầu làm quen với các đề trắc nghiệm, chuẩn bị cho
các kì thi trắc nghiệm sau này, trong SGK cũng nêu ra một số đề bài ở cuối
các chương [6].
2.3.4. Vấn đề sách bài tập
Trước đây cùng với SGK, Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức biên soạn cuốn
23
Sách bài tập (SBT), hướng dẫn và giải các bài tập trong SGK. Về phương
diện sư phạm việc xuất bản loại SBT như vậy tạo nên thói quen ỷ lại cho học
sinh. Người nào lười làm bài tập thì chỉ xem lời giải trong SBT, không cố
gắng tự mình giải. Để khắc phục tình trạng này, giờ đây Bộ Giáo dục và Đào
tạo chủ trương không xuất bản loại hướng dẫn giải bài tập như vậy nữa. Việc
hướng dẫn giải các bài tập trong SGK sẽ được trình bày trong sách giáo viên
(SGV) nhằm giúp các thầy cô giáo có tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy của
mình [5].
Nội dung SBT theo chương trình chuẩn là các bài tập tương tự SGK, phục vụ
cho học sinh đại trà và học sinh khá. Bên cạnh đó có một ít bài tập khó, dành
cho học sinh khá giỏi. Giáo viên và phụ huynh HS có thể dùng sách này làm
tư liệu tham khảo.
2.4. Phương pháp dạy và học Toán ở nhà trường Trung học phổ thông
Đây là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều thành tố tham gia, mà lâu nay đã
được các chuyên gia trong lĩnh vực phương pháp dạy học nghiên cứu và chỉ
rõ. Thực tiễn dạy học lâu nay ở nước ta, theo nội dung, chương trình và SGK
đã ban hành, hoạt động học và giải toán của học sinh đối tượng trung bình cơ
bản diễn ra theo trình tự: quan sát, tiếp thu kiến thức; làm bài có sự hướng
dẫn; tự làm theo mẫu; độc lập làm bài, tuân theo quá trình nhận thức chung là
đi từ Algôrit đến Ơritstic.
2.5. Khái niệm phù hợp
2.5.1. Khái niệm phù hợp
Trước hết ta phải làm rõ được khái niệm phù hợp với chương trình học.
Sự phù hợp với chương trình học được xem là sự hoà hợp, sự ăn khớp, sự
tương xứng trong cặp "HS –chương trình học", cụ thể hơn, là sự tương ứng
giữa những phẩm chất, đặc điểm của người học với những yêu cầu cụ thể của
24
chương trình học. Nói như vậy ta sẽ thấy ngay rằng, sự phù hợp với chương
trình học có nhiều mức độ. Thông thường người ta chia thành 4 mức độ sau
đây:
1/ Không phù hợp: Sự không phù hợp có nhiều nguyên nhân như trạng
thái sức khoẻ, thiếu năng lực chuyên môn hoặc bị dị tật.
2/ Phù hợp một phần: ở mức độ này, nhiều phẩm chất, nhiều đặc điểm
của HS không đáp ứng được hết những yêu cầu do chương trình học đặt ra.
Nếu chỉ phù hợp một phần thì HS đó rất khó trở thành một HS giỏi.
3/ Phù hợp phần lớn: Trong trường hợp này, những phẩm chất HS đáp
ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản của chương trình học. MĐPH phần lớn
thường thể hiện rất rõ ở hứng thú đối với chương trình học, ham thích và có
năng lực giải quyết các yêu cầu của chương trình học. Có được sự phù hợp
phần lớn này, con người sẽ thuận lợi trong phấn đấu trở thành HS giỏi.
4/ Phù hợp hoàn toàn: Đạt tới mức độ này, ta thấy HS đáp ứng được tất
cả những yêu cầu cơ bản do chương trình học đặt ra. Trong hoạt động học tập,
HS đạt những thành tích cao, thể hiện rõ xu hướng phát triển và lý tưởng học
tập.
Để có được chương trình học với các mức độ "phù hợp phần lớn" và
"phù hợp hoàn toàn" là một công việc rất khó khăn. Nó phụ thuộc vào một số
yếu tố yếu tố như: Sự nhận thức đúng đắn về chương trình học và lựa chọn
chương trình học; sự hiểu biết về các chương trình học trên thế giới; sự uyên
bác của các nhà thiết kế chương trình học...
2.5.2. Sự phù hợp với chương trình học của học sinh
PHVCTH là quá trình phù hợp của HS với các điều kiện bên ngoài và
bên trong của quá trình học tập. Trong đó, PHVCTH là vấn đề thu hút được
nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý, các chuyên gia. Chính PHVCTH là
25
công cụ để giải quyết vấn đề chất lượng học tập ở HS.
PHVCTH là quá trình phù hợp hai mặt. Một mặt là sự phù hợp của HS
với chương trình học mới của mình, với các điều kiện, đòi hỏi của môi trường
học tập, với bản thân hoạt động chương trình học; mặt khác, là sự phù hợp
của họ với những đặc trưng nhân cách của chương trình học. Việc đạt được
trạng thái phù hợp, thông qua đó không chỉ hoạt động chương trình học có
hiệu quả, mà còn tạo điều kiện phát triển chương trình học và nhân cách của
HS, được coi là kết quả của quá trình thích nghi hợp lý. Bên cạnh đó, quá
trình PHVCTH không chỉ được coi như là sự phù hợp của HS với chương
trình học mà còn là sự phù hợp của chương trình học với HS.
Như vậy, theo chúng tôi PHVCTH là quá trình HS học tập theo chương
trình học, hình thành những năng lực và phẩm chất cần thiết từ chương trình
học, "thâm nhập" chương trình học và nhân cách vào hoạt động học tập
nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách đáp ứng với chương
trình học.
26
2.6. Đánh giá mức độ phù hợp chương trình học đối với học sinh
Phù hợp với CTMT lớp 10 Chuẩn được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Trong đề tài này, dựa trên phân tích cơ sở lý luận về vấn đề phù hợp và
đưa ra cách hiểu về “Sự phù hợp chương trình học đối với HS”. Chúng tôi
đánh giá mức độ phù hợp với CTMT lớp 10 Chuẩn của HS theo các chỉ số sau
đây:
- Phù hợp thể hiện mức độ lĩnh hội kiến thức của HS đối với chương
trình học: HS tích cực, chủ động chiếm lĩnh nội dung kiến thức môn học. HS
nắm được kiến thức cơ bản của chương trình học, hiểu được nội dung bài học,
biết vận dụng vào các bài tập cơ bản.
- Phù hợp thể hiện ở đánh giá của chính các em HS về chương trình
học: HS tích cực tìm hiểu về chương trình học, yêu cầu của chương trình học,
tình yêu, thái độ và hứng thú đối với chương trình học. HS tự giác, tích cực
rèn luyện các kỹ năng chương trình học. HS khắc phục khó khăn, sử dụng
hiệu quả các điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng thiết bị dạy học trong quá trình
học tập
- Phù hợp thể hiện ở đánh giá của GV và cán bộ quản lý về chương
trình môn Toán 10 đối với HS.
- Phù hợp thể hiện ở đánh giá của PHHS về chương trình môn Toán 10
đối với HS.
Cách xác định mức độ phù hợp với CTMT lớp 10 Chuẩn của HS sẽ
được làm rõ ở chương 3 của bản báo cáo này.
2.7. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phù hợp với Chương trình môn
toán lớp 10 Chuẩn của học sinh tỉnh Thái Nguyên
Trong quá trình học tập, mức độ phù hợp với CTMT lớp 10 Chuẩn của
HS có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Với đề tài này, chúng
27
tôi chỉ tập trung làm rõ một số yếu tố cơ bản như: Mức độ tiếp thu kiến thức,
thái độ học tập của HS, phương pháp dạy học của GV, điều kiện gia đình và
một số điều kiện sư phạm khác.
2.7.1 Thái độ học tập của học sinh
Mỗi hoạt động con người thực hiện là do được thúc đẩy bởi động cơ
nào đó. Một hoạt động có thể được thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Trong đó,
động cơ nào mạnh, chiếm ưu thế sẽ thúc đẩy người học thực hiện hoạt động
theo hướng đó. Hoạt động học tập là một trong những hoạt động cơ bản của
con người và nó cũng mang những đặc điểm và cấu trúc chung như các dạng
hoạt động khác. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ học tập. Hoạt
động học tập của HS tỉnh Thái Nguyên cũng được thúc đẩy bởi các động cơ
khác nhau như: có em học tập vì mong muốn trở thành HS giỏi, có em học tập
đạt kết quả cao để thi đỗ vào các trường ĐH - CĐ, hoặc theo mong muốn của
cha mẹ để có được một công việc ổn định…Nếu được thúc đẩy bởi động cơ
học tập đúng đắn thì các em học tập tích cực để đạt được kết quả cao với khả
năng của mình. Ngược lại, nếu được thúc đẩy bởi động cơ học tập không
đúng đắn thì việc học tập của các em thường mang tính chất đối phó, “trung
bình chủ nghĩa” để không bị điểm kém, có được tấm bằng tốt nghiệp …
Động cơ học tập đúng đắn là động cơ thúc đẩy HS học tập nhằm đạt
được mục đích của bản thân, phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường và
mục tiêu giáo dục xã hội – đó là HS phải vươn lên nắm vững tri thức trong
chương trình học, tích cực rèn luyện các phẩm chất và kỹ năng cần thiết đáp
ứng yêu cầu của chương trình học và xã hội.
Trong quá trình hình thành động cơ học tập, mỗi HS thường nhận thức
được khá rõ mình cần vươn lên để nắm lấy tri thức có trong chương trình học,
phải ứng xử ra sao trong mối quan hệ với thầy, với bạn và những người xung
28
quanh để việc học của mình mang lại kết quả cao nhất,... Song, trong cuộc
sống thực, nhiều HS lại không làm được những điều mà mình đã nhận thức vì
không vượt qua được những ham muốn và thói quen đã hình thành từ trước.
Những điều HS nhận thức được phải được thực hiện trong hoạt động học tập
hàng ngày, thì khi đó nó mới trở thành động lực thúc đẩy HS hành động kiên
quyết vượt qua những ham muốn, những nhu cầu và thói quen đang cản trở
họ đạt tới kết quả cao trong học tập. Khi động cơ phát triển ở mức cao HS sẽ
vượt qua được mọi khó khăn, trở ngại, mọi lực cản xuất hiện trong học tập,
vươn lên đạt tới những mục tiêu đã xác định. Ngược lại, khi động cơ phát
triển ở mức độ thấp HS thường xuyên tỏ ra bị động, thiếu nghị lực trong
những hành động học tập, do đó thường bỏ dở, không thực hiện đến cùng
những nhiệm vụ học tập có mức độ khó khăn cao.
Động cơ học tập được thể hiện trong thái độ học tập của HS. Nói cách
khác, TĐHT của HS được quy định bởi động cơ học tập. Khi HS có động cơ
học tập đúng đắn, nó sẽ thúc đẩy HS tích cực thực hiện hoạt động học tập của
mình như: tự đề ra mục đích học tập, tự lựa chọn công cụ, phương tiện cần
thiết để đạt mục đích đó, tự xây dựng kế hoạch thực hiện hành động phù hợp
với những điều kiện hiện có và hoàn cảnh cụ thể của mình; tự điều khiển
mình thực hiện kế hoạch đã xây dựng nhằm đạt tới mục đích; đồng thời tự
kiểm tra đánh giá quá trình và kết quả hành động, làm cho học tập của mình
ngày càng mang lại hiệu quả cao.
Tóm lại, động cơ học tập đúng đắn giúp cho HS có thái độ tích cực
trong học tập. Trong xu thế phát triển của thời đại ngày nay, HS phải thực sự
làm chủ quá trình học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Do đó, HS cần điều chỉnh và hình thành động cơ, thái độ học tập tích cực để
chuẩn bị tốt hành trang cho mình trong quá trình học tập ở trường THPT, từ
đó giúp HS nhanh chóng phù hợp với những yêu cầu của chương trình học.
29
2.7.2 Phương pháp dạy học của giáo viên
Dạy và học là hai mặt của quá trình dạy học. Phương pháp học của HS
luôn gắn bó chặt chẽ với phương pháp dạy của GV. Trong những thập kỷ gần
đây, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tiến hành một cuộc cách mạng về
phương pháp dạy học trong giáo dục mà trong đó, đổi mới phương pháp dạy
và học có vị trí quan trọng hàng đầu. Ở nước ta, cũng đã có nhiều hội thảo,
các bài viết khoa học về chủ đề đổi mới phương pháp dạy học ở các bậc học
nói chung và các trường THPT nói riêng. Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực
này khi nói tới vấn đề đổi mới phương pháp dạy học THPT đều cho rằng nó
có những đặc điểm sau đây:
- Chuyển từ cách dạy tri thức là chủ yếu sang dạy cách học, cách giành
lấy tri thức là chủ yếu;
- Phát huy cao độ ý thức trách nhiệm của HS đối với việc học của
mình trước bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội;
- Động viên sự tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo của HS vào quá
trình dạy học;
- Tôn trọng ý kiến của HS, đảm bảo cơ hội cho họ tham gia trao đổi,
tranh luận với thầy và bạn;
- Hình thành ở HS năng lực tự học từ mức thấp đến mức cao; tạo cơ hội
để họ có thể tự học suốt đời, tự cập nhật kiến thức suốt đời để tự phát triển
một cách bền vững;
- Hình thành và phát triển ở HS kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xã hội
và kỹ năng sống nói chung trong một xã hội phát triển về mọi mặt, nhưng
cũng ẩn chứa những biến cố khó lường.
Để làm được như vậy đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ, nhịp nhàng giữa GV
và HS. Trong đó, GV với tư cách là người hướng dẫn, chỉ cho người học
30