Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 119 trang )
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ
Phần cơ sở lí luận về quản lí kiểm tra đánh giá tại chương 1 trình bày
tổng quan về vấn đề nghiên cứu và đưa ra một số khái niệm và lí luận cần thiết
về quản lí và kiểm tra đánh giá nói chung, trên cơ sở đó đề cập đến vấn đề
dạy và học, kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở cấp THCS.
1.1. Tổng quan về quản lí kiểm tra đánh giá nói chung và quản lí kiểm tra
đánh giá môn Ngữ văn cấp THCS nói riêng
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quản lí kiểm tra đánh giá trên thế giới
và các công trình nghiên cứu tại Việt nam
Có thể nói rằng bất kì khâu nào của quản lí giáo dục cũng cần tới đánh
giá. Không có đánh giá thì hệ thống quản lí giáo dục sẽ trở thành một hệ thống
một chiều, không có cơ chế phản ánh trở lại, tức là chỉ có chiều đi mà không
có chiều về. Đây là một cơ chế quản lí không khoa học, không hoàn thiện.
Chỉ khi có đánh giá, quản lí giáo dục mới nhận được phản hồi, mới kịp thời
phát hiện ra các vấn đề và giải quyết chúng. Giáo dục là một hệ thống quản lí
hai chiều theo kiểu khứ hồi. Như vậy có thể nói đánh giá là một nhân tố đảm
bảo cho quản lí giáo dục có tính khoa học và hoàn thiện. Đánh giá giáo dục là
một biện pháp quan trọng nhằm đi sâu cải cách giáo dục và là một phương
pháp quan trọng để nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục, có tác dụng tích
cực tới các dự án trong nhà trường, giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi
mặt [10]. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập là một trong những hoạt động quan
trọng nhất của quá trình dạy học. Bản chất của kiểm tra đánh giá là thu thập
các thông tin định tính và định lượng, xử lí các thông tin đó và xác định xem
mục tiêu của chương trình đào tạo, của môn học có đạt được hay không và nếu
đạt được thì ở mức độ nào.
Kiểm tra đánh giá là khâu cuối cùng và cũng là khâu quan trọng nhất
trong quá trình dạy học bởi lẽ nó không chỉ cho ta biết quá trình đào tạo có đạt
mục tiêu hay không, mà còn cung cấp các thông tin hữu ích để điều chỉnh toàn
bộ các hoạt động xảy ra trước đó.
6
Kiểm tra đánh giá là định hướng cuối cùng để người dạy hướng dẫn
người học cùng vươn tới cũng là để người học tuỳ theo năng lực của bản thân
tìm cách riêng cho mình hướng tới. Với nghĩa này, kiểm tra đánh giá sẽ định
hướng cách dạy của thầy và cách học của trò sao cho hiệu quả nhất, nghĩa là
cùng hướng tới việc đạt mục tiêu. Ngoài ra, các thông tin khai thác được từ kết
quả kiểm tra đánh giá sẽ rất hữu ích cho việc điều chỉnh phương pháp dạy của
thầy và phương pháp học của trò, đồng thời giúp các nhà quản lí có những thay
đổi cẩn thiết trong việc tổ chức quá trình đào tạo như điều chỉnh chương trình
đào tạo, nội dung đào tạo, hình thức tổ chức dạy- học. Nếu xem chất lượng của
quá trình dạy- học là sự trùng khớp với mục tiêu thì kiểm tra- đánh giá là cách
tốt nhất để đánh giá chất lượng của qui trình đào tạo [10]. Vì vai trò của kiểm
tra - đánh giá quan trọng như vậy nên đã có rất nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đã đề cập đến vấn đề này.
Trên thế giới quản lí kiểm tra đánh giá rất được quan tâm. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu: Mô hình đánh giá theo mục tiêu (Goal- based Model)
hay mô hình E B Taylor; mô hình CIPP do L.D. Sutufflebeam đề xuất năm
1966; mô hình đánh giá sự khác biệt (Discrepancy Evaluation Model) do
Malcolm Provus (1971)…Nhưng các nghiên cứu này ngoài những điểm mạnh:
chỉ ra được những qui trình đánh giá theo mục tiêu, tạo điều kiện để xác lập
mục tiêu phù hợp hơn với nhu cầu phát triển, tăng cường lực lượng đánh giá;
qua việc đánh giá các điều kiện thực thi, quá trình thực thi, các nhà quản lí kịp
thời điều chỉnh những điểm yếu và giúp hoạt động giáo dục đạt chất lượng và
hiệu quả hơn….thì vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết là: hạn chế sự phát triển
tự do năng lực sáng tạo của người học; không bám sát mục tiêu chương trình;
chỉ quan tâm đến hiệu ứng thật của chương trình và kết quả đầu ra….
Ở Việt Nam,vấn đề quản lí kiểm tra- đánh giá cũng đã có nhiều tác giả
nghiên cứu: Nguyễn Đức Chính, Đo lường và đánh giá trong giáo dục, tập bài
giảng Lưu hành nội bộ - Khoa sư phạm, Hà nội 2004; Dương Thiệu Thống,
Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Nxb Khoa học xã hội, 2005; Lâm
7
Quang Thiệp, Đo lường và đánh giá trong giáo dục, 2003; Trần Khánh Đức,
Đo lường và đánh giá trong giáo dục, tập bài giảng, Khoa sư phạm, Hà nội
2006; Đặng Bá Lãm, Kiểm tra đánh giá trong dạy học đại học, Nxb Giáo dục,
Hà nội 2003; Nguyễn Đức Chính – Đinh Thị Kim Thoa, Kiểm tra đánh giá
theo mục tiêu, tập bài giảng, Khoa Sư phạm, Hà nội 2005….
Các nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, mỗi nghiên cứu có những
điểm mạnh, điểm yếu, có nhiệm vụ nhằm vào những mục đích đánh giá khác
nhau, tuy nhiên đều có mục đích chung là: đánh giá sự tiến bộ của người học
qua từng giai đoạn, đánh giá mức độ đạt chuẩn của người học và cuối cùng là
đánh giá và nâng cao chất lượng giáo dục.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về quản lí kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn
cấp THCS
Nhiều năm qua, quản lí và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cấp THCS
bộc lộ nhiều tồn tại nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ có tác động xấu đến
chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Đứng trước thực tế này, có nhiều nghiên
cứu về kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn: Nguyễn Thuý Hồng, Đổi mới đánh
giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh THCS, THPT, Nxb Giáo dục,
2007, Một số vấn đề đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn lớp
6,7,8,9, TS Nguyễn Thuý Hồng, ThS. Nguyễn Hồng Vân, Nxb Giáo dục, HN,
2004; Vũ Xuân Lạng, Đổi mới cách ra đề bài môn Ngữ văn cho học sinh
THCS, diễn đàn Dân trí 2011; Phan Thanh Vân, Xu hướng đổi mới kiểm tra
đánh giá môn Ngữ văn, diễn đàn Dân trí 2011; Bùi Minh Tuấn, Nên khuyến
khích dạng đề mở đối với môn Ngữ văn, diễn đàn Dân trí 2011….Mặt mạnh
của các nghiên cứu này là chủ yếu tập trung phân tích thực trạng, tìm nguyên
nhân của việc chất lượng học tập môn Ngữ văn có nhiều giảm sút trong thời
gian gần đây và đưa ra giải pháp khắc phục. Một trong những nguyên nhân
quan trọng kìm hãm chất lượng chính là công tác kiểm tra đánh giá chưa được
thực hiện nghiêm túc. Các giải pháp đưa ra cơ bản có tính khả thi.
8
Nhưng các nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một qui trình quản lí kiểm tra
đánh giá cụ thể, tính phù hợp về đối tượng và điều kiện cơ sở vật chất của
từng vùng miền, từng địa phương vẫn còn hạn chế. Hơn nữa các nghiên cứu
mới chỉ đưa ra các giải pháp phục vụ trực tiếp cho công tác kiểm tra đánh giá
của giáo viên, nhiệm vụ của các nhà quản lí trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ
văn cấp THCS- một nhiệm vụ đóng vai trò cực kì quan trọng cho đến nay vẫn
chưa được quan tâm và cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề
cập đến.
Đề tài “Quản lí qui trình quản lí kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn các
trường THCS quận Hải An, Hải Phòng " lần đầu tiên được nghiên cứu với các
số liệu được điều tra, thu thập tại các trường THCS quận Hải An, Hải Phòng
có tính khả thi cao và mang tính cấp thiết trong nhiệm vụ nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn cấp THCS quận Hải An trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Các khái niệm của đề tài
1.2.1. Quản lý
Từ khi xã hội loài người xuất hiện, bắt đầu hình thành các nhóm người,
để thực hiện các mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá
nhân riêng lẻ thì quản lí xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những
nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung.
Xã hội ngày càng phát triển, quản lí càng có vai trò quan trọng trong
việc điều khiển các hoạt động của xã hội, qua nhiều phương thức sản xuất khác
nhau về trình độ tổ chức, điều hành quản lí ngày càng cao khiến năng suất lao
động ngày càng tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống con người nói chung
và trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng. Có thể nói rằng, quản lí là một
yếu tố cấu thành sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Quản lí là thuộc
tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội [7]
Marx đã viết: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào
được thực hiện ở qui mô tương đối lớn đều cần một chừng mực nhất định
của quản lí [23]
9
Theo Marx, quản lí về bản chất nó là quá trình điều chỉnh mọi quá trình
xã hội khác:” Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình còn dàn nhạc thì cần
nhạc trưởng” [23]
Theo lí luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin về quản lí: “Quản lí xã hội một
cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí đối với toàn bộ hay
những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận
dụng đúng đắn những qui luật khách quan vốn có của nó, nhằm đảm bảo cho
nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra” [23]
Các nhà lí luận quản lí quốc tế như Frederics Wiliam Taylor (Mỹ- 18561915), Henri Fayol (Pháp- 1841-1925), Max Weber (Đức- 1864- 1920) đều đã
khẳng định: “Quản lí là khoa học đồng thời là nghệ thuật”
Nói một cách tổng quát nhất, có thể xem ”quản lí là một quá trình tác
động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm đạt được
mục đích quản lí” [23]
Thực tế là chính sách đúng sẽ không mang lại hiệu quả nếu như không
được tổ chức, chỉ đạo, quản lí thực hiện một cách khoa học. Báo cáo Chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI đã nêu rõ: “Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước là
công tác cấp bách, là điều kiện tất yếu để đảm bảo huy động lực lượng to lớn
của quần chúng nhân dân để hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị do Đảng đề
ra, đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân”
1.2.2. Biện pháp quản lý
Đại từ điển Tiếng Việt (1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên, biện pháp là
“cách làm, cách tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Trong cuốn Lý luận quản lí nhà trường, tài liệu giảng dạy cao học quản
lí giáo dục của tác giả Nguyễn Quốc Chí- Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Hà nội, 2005
thì cho rằng: Biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tác động của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải
quyết nhưng vấn đề trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành đạt
10
mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan,
nâng cao khả năng hoàn thành có kết quả các mục tiêu đặt ra. Biện pháp quản
lý đòi hỏi sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Có 4 loại biện pháp quản lý cơ bản là: Biện pháp hành chính tổ chức,
biện pháp tâm lý – giáo dục, biện pháp thuyết phục và biện pháp kinh tế.
Biện pháp hành chính tổ chức: là cách tác động trực tiếp của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành
chính bằng mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định.
Biện pháp tâm lý – giáo dục: (còn gọi là biện pháp tuyên truyền giáo
dục) là cách tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý dựa trên cơ sở
vận dụng các quy luật tâm lý ứng dụng thành tựu các khoa học như Tâm lý
học, Khoa học giáo dục ... nhằm khai thác tiềm năng con người, kích thích ý
thức tự giác, lòng say mê, sự sáng tạo của con người trong mọi hoạt động của
tổ chức.
Biện pháp thuyết phục: là cách tác động của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý dựa trên cơ sở lý lẽ làm cho họ nhận thức đúng đắn và tự
nguyện thừa nhận các yêu cầu của nhà quản lý từ đó có thái độ và hành vi phù
hợp với yêu cầu.
Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý dựa trên cơ sở thuyết động lực kinh tế với luận điểm: lợi ích kinh tế sẽ
tạo nên động lực thúc đẩy con người tích cực hoạt động mà không cần sự can
thiệp trực tiếp về mặt hành chính của cấp trên.
Do đó có thể hiểu biện pháp quản lý là tổng thể cách thức tác động của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trong quá trình tiến hành các hoạt động
nhằm đạt được mục đích đề ra.
Các biện pháp quản lý rất đa dạng đòi hỏi nhà quản lý phải biết lựa chọn
và sử dụng linh hoạt, sáng tạo để xử lý các tình huống trong từng trường hợp
cụ thể giúp hoạt động quản lý đạt hiệu quả tối ưu. Đó cũng chính là nghệ thuật
quản lý.
11
1.2.3. Kiểm tra
Có rất nhiều quan điểm của nhiều tác giả khi bàn về khái niệm kiểm tra:
Trong từ điển Tiếng Việt (1998) có định nghĩa: “Kiểm tra là xem xét
tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét ”[21]
Từ điển Bách khoa (2001) có định nghĩa “Kiểm tra là bộ phận hợp
thành của quá trình hoạt động dạy – học nhằm uốn nắn được thông tin về
trạng thái và kết quả học tập của học sinh, về những nguyên nhân cơ bản của
thực trạng đó để tìm ra những biện pháp khắc phục những lỗ hổng, đồng thời
củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động dạy – học”[22]
Tác giả Đặng Bá Lãm (2003) lại cho rằng “Kiểm tra là quá trình xác
định mục đích, nội dung, lựa chọn phương pháp, tập hợp số liệu, bằng chứng
để xác định mức độ đạt được của người học trong quá trình học tập, rèn luyện
và phát triển. Kiểm tra bao gồm việc xác định điều cần kiểm tra, công cụ kiểm
tra và sử dụng kết quả kiểm tra, tức đánh giá”[13]
Tác giả Phạm Viết Vượng (2004) trong khái niệm kiểm tra lại quan tâm
nhiều đến tính tích cực hóa hoạt động của học sinh: “Kiểm tra là phương pháp
xem xét thường xuyên quá trình học tập của học sinh. Mục đích của kiểm tra là
tích cực hóa hoạt động của học sinh, tăng cường chất lượng học tập. Kiểm tra
là khâu quan trọng trong quá trình dạy học nhằm đánh giá kết quả học tập”
Giáo sư Nguyễn Đức Chính (2005) nhấn mạnh đến các đại lượng đặc trưng
trong quá trình thu thập thông tin như sau: “Đo lường là quá trình thu thập thông
tin một cách định lượng và định tính về các đại lượng đặc trưng như nhận thức, tư
duy, kỹ năng và các phẩm chất nhân cách khác trong quá trình giáo dục”[6]
Theo Từ điển Online của Đại học Cambridge, kiểm tra (examine) là một
trắc nghiệm kiến thức, kỹ năng của người học về một môn học cụ thể, kết quả
là một chứng nhận nếu sinh viên thành công
Qua các định nghĩa trên, ta có thể thấy, trong quá trình dạy học, để nắm
được thông tin về kiến thức, kỹ năng, năng lực của người học, nhà trường hay
giáo viên thường tiến hành kiểm tra. Kiểm tra là công việc nhằm đo hay xác
12
định mức độ về kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người học đạt được sau một quá
trình học tập.
1.2.4. Đánh giá
Bất kì một quá trình giáo dục nào tác động lên một con người cũng
nhằm tạo ra những biến đổi nhất định trong đối tượng đó. Muốn biết những
biến đổi đó xảy ra ở mức độ nào phải đánh giá hành vi của đối tượng trong một
tình huống nhất định. Sự đánh giá cho phép chúng ta xác định, một là mục tiêu
giáo dục được đặt ra có phù hợp hay không và có đạt được mục tiêu hay
không, hai là việc giảng dạy có thành công hay không, người học có tiến bộ
hay không.
Theo định nghĩa tổng quát, đánh giá là sự hình thành nhận định, phán đoán
về đối tượng thông qua sự phân tích thông tin thu được trên cơ sở đối chiếu với
các mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất các quyết định thích hợp để cải thiện
thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng hiệu quả công việc.
Thuật ngữ đánh giá theo GS Nguyễn Đức Chính (2005) được định nghĩa
như sau: “Đánh giá là quá trình thu thập và xử lý thông tin một cách có hệ
thống nhằm xác định mục tiêu đã và đang đạt được ở mức độ nào”[6]
Hoặc “Đánh giá là quá trình thu thập thông tin và dữ liệu một cách hệ
thống về năng lực và phẩm chất của người học và sử dụng các thông tin đó
đưa ra quyết định về người học và dạy học trong tương lai”.
Tác giả Đặng Bá Lãm (2003) thì cho rằng “Đánh giá là một quá trình
có hệ thống bao gồm việc thu thập, phân tích, giải thích thông tin nhằm xác
định mức độ người học đạt được các mục tiêu dạy học”
Đánh giá giáo dục được hiểu là “Sự thu thập, chỉnh lí, xử lí, phân tích một
cách toàn diện, khoa học, hệ thống những thông tin về sự nghiệp giáo dục, để rồi
phán đoán giá trị của nó nhằm thúc đẩy công cuộc cải cách giáo dục, nâng cao
trình độ phát triển của giáo dục, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng xã
hội” [10]
13
Như vậy, đánh giá trong giáo dục là sự xem xét, so sánh độ tương thích giữa những
thông tin thu nhận được về quá trình giáo dục với chuẩn mực, tiêu chuẩn tương ứng
nhằm đưa ra những quyết định về người học và việc tổ chức quá trình dạy học.
1.2.5. Kiểm tra đánh giá
Kiểm tra đánh giá là quá trình thu thập và xử lý thông tin về tình hình
lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành những kỹ
năng, kỹ xảo của học sinh ... so với mục tiêu học tập. Từ đó cho điểm, phân
loại học sinh và có những biện pháp giúp đỡ học sinh tiến bộ.
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được của quá
trình dạy học, là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học.
Kiểm tra đánh giá là công việc của cả giáo viên và học sinh. Giáo viên kiểm tra
và đánh giá kết quả học tập của học sinh, học sinh tự kiểm tra việc học tập của
mình hoặc kiểm tra đánh giá lẫn nhau.
Kiểm tra đánh giá thường được thực hiện ngay từ đầu quá trình giảng
dạy để có thể tìm hiểu về đối tượng giảng dạy, trong quá trình giảng dạy có
những thông tin phản hồi giúp điều chỉnh quá trình dạy học và định hướng cho
quá trình đó.
Kiểm tra và đánh giá là 2 khâu không thể tách rời nhau trong một hoạt
động thống nhất. Trước khi ĐG thì phải KT và một khi KT được thực hiện thì
ĐG cũng phải được tiến hành. KT có thể coi là công cụ để cung cấp thông tin
cho ĐG, còn ĐG có thể coi là phép đo dựa trên những thông tin thu được từ
KT nhằm xác định mức độ nắm vững từng nội dung học tập của người học,
cho điểm nhằm đưa ra các thông tin phản hồi, kết luận về thành tích, khả năng
của người học.
Kiểm tra phải luôn gắn liền với đánh giá vì kiểm tra mà không đánh giá
sẽ không có tác dụng và hiệu quả đáng kể, ngược lại đánh giá không dựa trên
số liệu của kiểm tra thì rất dễ mang tính chất ngẫu nhiên, chủ quan, do đó dễ
dẫn đến những hậu quả không tốt về tâm lý, giáo dục.
14
1.2.6. Kết quả học tập
Học tập theo lý luận dạy học hiện đại, về bản chất học tập là hoạt động
nhận thức của người học được thực hiện dưới sự tổ chức điều khiển của nhà sư
phạm. Mục đích của hoạt động là tiếp thu nền văn hóa, văn minh nhân loại và
chuyển hóa chúng thành năng lực thể chất, năng lực tinh thần của mỗi cá nhân
người học. Đối tượng của hoạt động học là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng được thể hiện ở nội dung của môn học, bài học bằng hệ thống khái
niệm khoa học và khái niệm môn học. Quá trình dạy học là khái niệm chỉ hoạt
động chung của người dạy và người học và hai hoạt động này tồn tại song
song. Kết quả học tập thể hiện chất lượng của quá trình dạy học.
Kết quả học tập hay thành tích học tập được hiểu theo nghĩa giống nhau
mặc dù những khái niệm này chưa thực sự thống nhất. Kết quả học tập thể hiện
chất lượng của quá trình dạy học. Kết quả học tập chỉ đích thực xuất hiện khi
có nhiều biến đổi tích cực trong nhận thức, hành vi của người học. Trong khoa
học cũng như trong thực tế, kết quả học tập được hiểu theo hai nghĩa:
- Mức độ mà người học đạt được so với các mục tiêu đã xác định (theo
tiêu chí)
- Mức độ mà người học đạt được so với các người cùng học khác (theo
tiêu chuẩn)
Dù được hiểu theo nghĩa nào thì kết quả học tập đều thể hiện ở mức độ
đạt được của các mục tiêu dạy học. Theo Nguyễn Đức Chính (2005): “Kết quả
học tập là mức độ kiến thức, kỹ năng hay nhận thức của người học trong môn
lĩnh vực (môn học) nào đó. Chỉ có bài kiểm tra (trắc nghiệm) kết quả học tập là
có thể đo lường một cách trực tiếp những gì người ta thiết kế để đo”[6] Kết
quả học tập của học sinh là thước đo của quá trình đào tạo do vậy đánh giá
được chính xác kết quả học tập của học sinh là điều vô cùng cần thiết.
1.2.7. Đổi mới công tác kiểm tra – đánh giá
Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá chính là tập hợp các cách thức, hoạt
động nhằm điều chỉnh và hướng người học đạt được mục tiêu dạy học một
15
cách hiệu quả nhất thông qua hoạt động kiểm tra đánh giá. Đổi mới không phải
là bỏ đi cái đã có và thay thế bằng cái mới, cái mới khi chưa được thực nghiệm
và kiểm tra đánh giá chưa chắc đã là hiệu quả. Đó là sự kết hợp hiệu quả giữa
các phương pháp kiểm tra trong quá trình dạy học
Đổi mới kiểm tra đánh giá trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, trong
nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì mà còn dạy
học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách có
tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy
học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình
sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến kiểm tra đánh kết quả dạy học.
Kiểm tra đánh giá có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Kết quả của kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động
học và quản lý giáo dục. Nếu kiểm tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về
chất lượng đào tạo gây tác hại to lớn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Đổi
mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn
xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ
giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.
1.3. Lý luận về kiểm tra đánh giá
1.3.1. Tổng quan về kiểm tra đánh giá
Chất lượng đang là vấn đề có tính thời sự được đặt ra đối với mỗi cơ sở
đào tạo trong thời điểm hiện nay. Để nâng cao chất lượng đào tạo, bên cạnh
việc đổi mới mục tiêu, cải tiến nội dung, phương pháp ... nâng cao chất lượng
kiểm tra đánh giá là một khâu hết sức cần thiết.
Trong những năm gần đây, ngành giáo dục - đào tạo có nhiều cố gắng đổi
mới công tác dạy học, công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh sinh viên. Nhưng trên thực tế, do cách kiểm tra đánh giá vẫn còn nặng nề và kém
khoa học, nên đã ít nhiều hạn chế đến cố gắng đổi mới về mục tiêu, chương trình
đào tạo, nội dung đào tạo và phương pháp dạy học. Bên cạnh đó vấn đề học thêm dạy thêm và bệnh thành tích trong giáo dục đã làm nảy sinh ra rất nhiều hiện tượng
16