1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO QUAN ĐIỂM CHUẨN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 116 trang )


Hiệu trưởng các trường Trung học phổ thông huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải

Phòng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay”...

Đối với ngành GD-ĐT Nam Định nói chung, giáo dục THPT của huyện

Hải Hậu nói riêng chưa có một tác giả, một đề tài nào nghiên cứu đầy đủ khoa

học về công tác quản lý ĐNGV trong mối quan hệ các trường học trên địa bàn

huyện. Chính vì vậy, nghiên cứu về quản lý ĐNGV ở các trường THPT huyện

Hải Hậu trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu một

cách khoa học và hệ thống.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Giáo viên

* Giáo viên: Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục

phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên.

* Giáo viên trường trung học:

Giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục

trong nhà trường, gồm: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo

viên làm công tác Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư, phó bí thư

hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn), giáo viên làm tổng phụ trách Đội Thiếu

niên Tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc

cấp THCS), giáo viên làm công tác tư vấn cho học sinh.

Trình độ đạt chuẩn của giáo viên trường THPT: có bằng tốt nghiệp ĐHSP

hoặc có bằng tốt nghiệp Đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.

1.2.2. Đội ngũ giáo viên

- Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa: „„Đội ngũ là một tập hợp một số

đông người cùng chức năng nghề nghiệp, được tập hợp và tổ chức thành một

lực lượng‟‟ [44, tr.339].

- Có tác giả thì quan niệm như sau: “ĐNGV trong ngành giáo dục là một

tập thể người, bao gồm cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên; nếu chỉ đề



7



cập đến đặc điểm của ngành thì đội ngũ đó chủ yếu là một ĐNGV và đội ngũ

cán bộ quản lý giáo dục” [21, tr.10].

- Căn cứ vào đó có thể hiểu ĐNGV như sau: ĐNGV là một tập hợp

những người làm nghề dạy học - giáo dục được tổ chức thành một lực lượng,

có chung một lý tưởng, mục đích, nhiệm vụ là tạo ra sản phẩm giáo dục

“Nhân cách – Sức lao động”. Họ là một tập hợp có tổ chức, có sự chỉ huy

thống nhất, bị ràng buộc bởi trách nhiệm, quyền hạn và được hưởng các

quyền lợi về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ qui định của luật pháp,

luật giáo dục và điều lệ nhà trường.

- Đội ngũ giáo viên THPT là những người làm công tác giảng dạy, giáo

dục trong trường THPT, có cùng nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện học sinh

THPT giúp các em hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu giáo dục

đã xác định cho cấp học. Theo quan điểm hệ thống, tập hợp giáo viên của một

trường THPT nhất định được gọi là đội ngũ giáo viên của trường THPT đó.

Đây là một hệ thống mà mỗi thành tố trong đó có mối quan hệ lẫn nhau, bị

ràng buộc bởi những cơ chế xác định. Vì lẽ đó mỗi tác động vào các thành tố

đơn lẻ của hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ vừa có ý nghĩa trên toàn thể với

toàn bộ hệ thống.

1.2.3. Quản lý

Khái niệm về quản lý:

- Các nhà lý luận quản lý quốc tế như Frederick Winslow Taylor (Mỹ 1856 - 1915), Henri Fayol (Pháp - 1841- 1925), Max Weber (Đức- 1864 1920), Mary Parker Follett (Mỹ - 1868 - 1933) đều đã khẳng định: Quản lý là

khoa học và đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.

- Quản lý nền sản xuất-xã hội là loại hình quản lý đặc biệt phát sinh từ

tính chất xã hội hóa lao động. Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp

hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng

đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện



8



những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với

sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vỹ cầm tự

mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải nhạc trưởng”.

- Theo những định nghĩa kinh điển nhất, hoạt động quản lý là các tác

động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến

khách thể quản lý (người bị quản lý - trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ

chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Hiện nay, hoạt động quản lý

thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ

chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức,

chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra. [13, tr. 9]

- Tác giả Nguyễn Ngọc Quang lại định nghĩa: “Quản lý là tác động có

mục đích, kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói

chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu dự kiến [27, tr. 24].

Như vậy, từ các định nghĩa trên về quản lý ta có thể rút ra nhận xét như

sau: Về bản chất của hoạt động quản lý gồm hai bộ phận đó là chủ thể quản lý

và khách thể quản lý. Hai bộ phận này có quan hệ khăng khít với nhau, không

tách rời nhau. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay nhóm người có chức

năng quản lý, điều hành tổ chức, làm cho tổ chức thực hiện để đạt được mục

tiêu đề ra. Khách thể quản lý là những người thực hiện nhiệm vụ trong tổ

chức, chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu

chung. Chủ thể quản lý làm nảy sinh tác động quản lý, còn khách thể quản lý

sản sinh ra vật chất tinh thần có giá trị sử dụng, đáp ứng nhu cầu con người,

đáp ứng mục đích chủ thể quản lý.

Các chức năng cơ bản của quản lý:

Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt thông qua

đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu

nhất định. Theo quan điểm quản lý hiện đại có bốn chức năng cơ bản đó là: Kế

hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.



9



- Chức năng kế hoạch là quá trình xác định các mục tiêu phát triển giáo

dục và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó.

Khi tiến hành chức năng kế hoạch, người quản lý cần hoàn thành được hai

nhiệm vụ là xác định đúng những mục tiêu cần phát triển giáo dục và quyết định

được những biện pháp có tính khả thi (phù hợp với quan điểm, đường lối theo

từng giai đoạn phát triển của đất nước).

- Chức năng tổ chức là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn nhân lực

theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra.

- Chức năng chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng tới hành vi, thái độ

của những người khác nhằm đạt tới mục tiêu với chất lượng cao.

- Chức năng kiểm tra là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo

cho các hoạt động những hoạt động đạt tới mục tiêu của tổ chức.

Các chức năng quản lý tạo thành một chu trình quản lý. Trong đó, từng

chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có quan hệ biện chứng với

nhau. Trong quá trình quản lý thì yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các

giai đoạn với vai trò vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để tạo điều kiện cho

chủ thể quản lý thực hiện các chức năng quản lý và đưa ra được các quyết

định quản lý. Mối quan hệ giữa các chức năng của quản lý được thể hiện qua

sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1: Quan hệ các chức năng quản lý

Kế hoạch



Kiểm tra,

đánh giá



Thông

tin



Chỉ đạo



10



Tổ chức



1.2.4. Quản lý giáo dục

* Khái niệm QLGD, cho đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng

cơ bản đều thống nhất với nhau về nội dung và bản chất:

- QLGD cũng là một lĩnh vực được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII

khẳng định: “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới

khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới

kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất’’ [15, tr.50].

- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống những tác động

có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ

vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của

nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy

học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên

trạng thái về chất” [27, tr.35].

- Theo tác giả Trần Kiểm QLGD là những tác động có hệ thống, có kế

hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến

tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình

thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự

phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em. [21].

- Từ những định nghĩa trên cho ta thấy, bản chất của QLGD là quá trình

tác động có định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá

trình hoạt động GD nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục đề ra.

Trong đó:

+ Chủ thể QL: Đội ngũ cán bộ quản lý của các cấp.

+ Khách thể QL: Các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

+ Quan hệ QL: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người dạy,

quan hệ giữa người quản lý và người dạy, người học; quan hệ giữa nhà

trường, gia đình và xã hội.



11



+ Các thành tố đó là: Mục tiêu giáo dục; nội dung giáo dục; phương pháp

giáo dục; lực lượng giáo dục (người dạy); đối tượng giáo dục (người học),

phương tiện giáo dục (điều kiện).

* Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam, chịu sự quản lý của nhà nước và sự tham gia của

nhân dân. Quản lý nhà nước trong giáo dục theo Luật giáo dục 2005 và một

số điều sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Điều 99, bao gồm 12 nội dung sau:

1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính

sách phát triển giáo dục;

2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo

dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động

của cơ sở giáo dục khác;

3. Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà

giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất

bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn

bằng, chứng chỉ;

4. Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất

lượng giáo dục;

5. Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo

dục;

6. Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;

7. Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ

quản lý giáo dục;

8. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo

dục;

9. Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ

trong lĩnh vực giáo dục;

10. Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;



12



11. Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao

đối với sự nghiệp giáo dục;

12. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết

khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.

1.2.5. Quản lý nhà trường

Vấn đề cơ bản của quản lý giáo dục là quản lý nhà trường vì nhà trường

là cơ sở giáo dục, là hạt nhân của hệ thống giáo dục quốc dân, nơi tổ chức

thực hiện mục tiêu giáo dục. Trường học là tổ chức giáo dục mang tính quyền

lực Nhà nước - Xã hội, trực tiếp làm công tác GD-ĐT thế hệ trẻ cho tương lai

của đất nước.

- Theo tác giả Phạm Minh Hạc “QL nhà trường là thực hiện đường lối

giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường

vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào

tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [20, tr.373]

- Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của

các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học

sinh và các lực lượng giáo dục khác cũng như huy động tối ưu các ngồn lực giáo

dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đạo tạo trong nhà trường” [45, tr. 205].

- Tác giả Trần Kiểm thì cho rằng: “Quản lý trường học có thể hiểu là

một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể

quản lý đến tập thể GV, HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà

trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt

động của nhà trường hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả

mục tiêu dự kiến” [24, tr.27].

Như vậy, ta có thể hiểu quản lý nhà trường là những công việc mà

người cán bộ quản lý phải thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của mình để

lãnh đạo nhà trường. Đó chính là những hoạt động có mục đích, có kế hoạch



13



của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện

các mục tiêu của nhà trường đề ra.

Quản lý nhà trường gồm nhiều nội dung như quản lý ĐNGV, nhân viên

và học sinh; quản lý cơ sở vật chất và thiết bị trường học; quản lý tài chính và

tài sản; quản lý quá trình dạy học và giáo dục,...Trong đó quản lý ĐNGV là

lực lượng trọng nhất vì ĐNGV là nhân tố chủ yếu quyết định đến chất lượng

và hiệu quả giáo dục trong nhà trường.

Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống những tác động sư phạm

hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên,

học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm được sự đồng

thuận, ủng hộ, huy động của họ vào hoạt động giáo dục của nhà trường góp phần

nâng cao chất lượng và hiệu quả mục tiêu đã vạch ra.

1.2.6. Phát triển nguồn nhân lực

Phát triển nguồn nhân lực là tạo ra sự phát triển bền vững về hiệu quả

chung của mỗi tổ chức và hiệu suất của mỗi thành viên, gắn liền với việc

không ngừng tăng lên về mặt số lượng và chất lượng của đội ngũ cũng như

chất lượng sống của nguồn nhân lực.

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Quản lý nguồn

nhân lực: “là chức năng quản lý giúp người quản lý tuyển mộ, lựa chọn, huấn

luyện và phát triển của tổ chức” [13, tr.119].

Quá trình quản lý nguồn nhân lực bao gồm bảy hoạt động sau đây:

+ Kế hoạch hoá nguồn nhân lực;

+ Tuyển mộ;

+ Chọn lựa;

+ Xã hội hoá hay định hướng;

+ Huấn luyện và phát triển;

+ Thẩm định kết quả hoạt động;

+ Đề bạt, thuyên chuyển, giáng cấp và sa thải



14



Nội dung của phát triển nguồn nhân lực xét trên bình diện xã hội là một

phạm trù rộng lớn. Theo quan điểm của chương trình phát triển của Liên hiệp

quốc, có các nhân tố phát năng của sự phát triển nguồn nhân lực sau đây: GDĐT; việc làm; sức khỏe và dinh dưỡng; sự giải phóng con người. Trong các

nhân tố đó, nhân tố GD-ĐT là nhân tố giữ vai trò quan trọng hơn cả bởi vì nó

là cơ sở cho sự phát triển của các nhân tố khác. Việc phát triển nguồn nhân

lực thực sự đạt hiệu quả nếu có chính sách phát triển nguồn nhân lực đúng

đắn. Chính sách phát triển nguồn nhân lực bao gồm: Quy hoạch, tuyển dụng,

chế độ chính sách, sử dụng, phân bổ nguồn nhân lực, tiền lương, khen

thưởng... Có thể hình dung quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với quản

lý nguồn nhân lực.

Sơ đồ 1.2. Quản lý phát triển nguồn nhân lực

Quản lý nguồn nhân lực



Phát triển

nguồn nhân lực



- Giáo dục

- Đào tạo

- Bồi dưỡng

- Phát triển

- Nghiên cứu



Sử dụng

nguồn nhân lực



- Tuyển dụng

- Sàng lọc

- Bố trí

- Đánh giá

- Đãi ngộ

- Kế hoạch hóa



Môi trường

nguồn nhân lực



- Mở rộng việc

làm

- Mở rộng quy

mô việc làm

- Phát triển tổ

chức



1.2.7. Biện pháp quản lý

- Biện pháp quản lý là cách tác động của chủ thể quản lý lên khách thể

(đối tượng) quản lý (bằng các chức năng quản lý) để giải quyết một vấn đề và để

đạt mục đích đề ra.

- Biện pháp quản lý ĐNGV của nhà trường là những cách tiến hành của

nhà trường để tác động đến ĐNGV nhằm đạt được mục tiêu của hoạt động này.



15



1.2.8. Chuẩn và chuẩn hóa

- Chuẩn:

Trong chuẩn chứa đựng các yêu cầu, các quy định và những tiêu chí nhằm

đạt được nội dung về mức độ giá trị, chất lượng của nội dung này và hiệu quả,

cách thức của quá trình đạt tới các giá trị, chất lượng của nội dung đó như thế

nào. Các yêu cầu, tiêu chí quy định xác định rõ nội dung được gọi là chuẩn nội

dung; hệ thống các yêu cầu, tiêu chí và quy định còn lại được gọi là chuẩn thực

hiện. Như vậy, mỗi chuẩn đều có hai mặt, đó là chuẩn về nội dung và thực hiện.

Chuẩn là mẫu lý thuyết mang tính nguyên tắc, tính công khai và tính xã

hội hóa, được đặt ra bằng quyền lực hành chính hoặc chuyên môn, bao gồm

những yêu cầu, tiêu chí, quy định kết hợp lôgic với nhau, được làm công cụ xác

minh sản phẩm, nội dung công việc... trong lĩnh vực nào đó và có khuynh hướng

điều chỉnh nó theo nhu cầu, mục tiêu mong muốn của chủ thể quản.

- Chuẩn hóa:

Chuẩn hóa là những quá trình làm cho các sự vật, đối tượng thuộc

phạm trù nhất định đáp ứng được các chuẩn đã ban hành. Theo đó, chuẩn hóa

tổ chức là tổ hợp các quá trình làm cho các bộ phận, cá nhân trong tổ chức và

hoạt động của chúng đáp ứng được các chuẩn đã ban.

Chức năng của chuẩn hóa là định hướng hoạt động quản lý, làm cho

việc thực hiện các chức năng, biện pháp quản lý được thống nhất theo những

nguyên tắc xác định; quy chuẩn các sản phẩm, các quá trình tạo ra sản phẩm;

khuyến khích và tạo môi trường chính thức ngày càng thích hợp cho sự phát

triển, đồng thời hạn chế những nhân tố tự phát, phi chính thức trong phát triển

hoặc những nhân tố phản phát triển.

1.3. Giáo dục THPT và đổi mới giáo dục Trung học phổ thông

1.3.1. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đổi mới GDPT

- Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).



16



- Theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng

sản Việt Nam.

- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020

- Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09/12/2000 của Quốc hội khoá X đề

ra mục tiêu đổi mới chương trình GDPT là quá trình đổi mới trên nhiều lĩnh vực

của GD mà tâm điểm của quá trình này là đổi mới chương trình GD từ tiểu học

đến THPT.

- Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg ngày 11/01/2005

về việc đổi mới chương trình GDPT thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của

Quốc hội khoá X.

- Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 của nước ta đã đề ra nhiệm vụ:

Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả

các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương

trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại

ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã

hội chăm lo phát triển giáo dục.

1.3.2. Mục tiêu giáo dục Trung học phổ thông

Mục tiêu giáo dục THPT được xác định rất rõ trong Luật Giáo dục 2005

và sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 là: “Giáo dục trung học phổ thông

nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học

cơ sở hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ

thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn

hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp học nghề hoặc đi vào

cuộc sống lao động”.

1.3.3. Những yêu cầu đổi mới giáo dục Trung học phổ thông

- Do yêu cầu phát triển KT-XH đối với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân

lực trong giai đoạn mới.

- Do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ của Khoa học Công nghệ.



17



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

×