Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.4 MB, 110 trang )
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Kinh tế
nghiệp có thể gặp phải những nguy cơ nào? Từ việc phân tích nguy cơ, thách thức giúp
doanh nghiệp biết được những việc cần phải làm, qua đó biến yếu điểm thành triển
vọng.
Từ việc phân tích mô hình SWOT, doanh nghiệp sẽ biết được lợi thế, điểm
mạnh cũng như điểm yếu của mình về giá, chất lượng sản phẩm, ... so với đối thủ cạnh
tranh. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có những định hướng, chiến lược phù hợp để nâng cao
sức cạnh tranh của mình.
b. Phương pháp thu thập dữ liệu
Do có sự giới hạn về thời gian cũng như điều kiện thu thập dữ liệu, đề tài
khóa luận sẽ chỉ chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu qua các nguồn thứ
cấp. Đây là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp thông qua các tài liệu, sổ sách,
báo chí, internet… cùng các số liệu báo cáo của công ty, chủ yếu là các số liệu kế
toán liên quan tới tình hình kinh doanh các loại hàng hóa của công ty, các báo cáo
kinh doanh, doanh thu của công ty từ năm 2010 tới năm 2012. Qua đó tổng hợp
thống kê doanh thu của mặt hàng cửa nhựa lõi thép và cửa thủy lực, dự báo được xu
hướng cũng như quyết định nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên địa
bàn Hà Nội. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu phục vụ cho nội dung chương
2 và chương 3 của đề tài khóa luận.
c. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:
• Phương pháp thống kê: Để thực hiện tổng kết số liệu, em đã thống kê các số liệu
thu thập được qua công tác thu thập số liệu thành dạng bảng. Ngoài ra, những tài
liệu thu thập được đã được xử lý dưới dạng đồ thị, biểu đồ. Từ các bảng số liệu, lập
ra biểu đồ để thông qua đó quan sát và rút ra những đánh giá tổng quát về thực trạng
năng lực cạnh tranh của mặt hàng cửa HVWindows trên địa bàn Hà Nội.
• Phương pháp so sánh đối chiếu: Sau khi đã thống kê số liệu dưới dạng bảng và sắp
xếp phù hợp, em đã tiến hành so sánh đối chiếu số liệu qua các năm vào các thời
điểm cụ thể để làm nổi bật nên tốc độ tăng doanh số từ hoạt động tiêu thụ mặt hàng
cửa HVWindows trên thị trường Hà Nội qua các năm. Qua đó thấy được khả năng
•
cạnh tranh của mặt hàng này trong thời gian qua
Phương pháp chỉ số: phương pháp chỉ số để đánh giá sự tăng lên hay giảm xuống
về tỷ trọng, thị phần thị trường của việc tiêu thụ mặt hàng cửa HVWindows trên thị
trường Hà Nội, qua đó đánh giá được các vấn đề về khả năng cạnh tranh trong giai
đoạn hiện nay.
• Phương pháp phân tích tổng hợp: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để
phân tích tổng hợp, ngoài ra còn sử dụng phương pháp logic và phương pháp triển
khai, quy nạp trong quá trình phân tích lý luận và thực tiễn.
11
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Kinh tế
d. Kết cấu của khoá luận tốt nghiệp
Ngoài phần tóm lược, danh mục bảng biểu, từ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, khóa luận tốt nghiệp được kết cấu như sau:
Mở đầu
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về sức cạnh tranh sản phẩm của doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về sức cạnh tranh sản phẩm cửa HVWindows của
Công ty cổ phần Thương mại và Xây dựng Hà Văn – Gia Lộc trên địa bàn Hà
Nội giai đoạn 2010 – 2012
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản
phẩm cửa HVWindows của Công ty cổ phần Thương mại và Xây dựng Hà
Văn – Gia Lộc trên thị trường Hà Nội thời gian tới.
12
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Kinh tế
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1.
Khái niệm cạnh tranh và sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp và sự cần
thiết của sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh
vực như: kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, thường xuyên được nhắc tới
trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông tin
đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn
đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:
Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành động
ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành
được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần
thưởng hay những thứ khác.
Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những
chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng (người
sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau
để mua được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn
trong sản xuất và tiêu thụ.
Theo Michael Porter: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh
tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình
mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi
nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm
đi”.
Nhìn một cách tổng quát, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là sự ganh đua
giữa những người theo đuổi cùng mục đích nhắm đánh bại đối thủ và giành cho
mình lợi thế kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp ( cả nghệ thuật kinh doanh
lẫn thủ đoạn kinh doanh ) để đoạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu là chiếm lĩnh thị
trường, tối đa hoá lợi nhuận,…Trên phương diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có
vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh khiến cho các nguồn lực được phân
bố một cách hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng tối
ưu các nguồn lực, và điều đó cũng góp phần nhằm nâng cao đời sống xã hội .Trên
13
Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Kinh tế
phương diện của doanh nghiệp, cạnh tranh chính là áp lực và cũng đồng thời là
động lực cho doanh nghiệp phát triển nội lực bản thân nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình. Nhờ có cạnh tranh ngày càng diễn ra một cách gay gắt đã buộc các
doanh nghiệp phải luôn luôn tự đổi mới, hoàn thiện bản thân mình về : công nghệ,
chiến lược, quản lí,...
Cạnh tranh của ngành, của nền kinh tế phải bắt đầu từ cạnh tranh của doanh
nghiệp và cạnh tranh của doanh nghiệp phải xuất phát từ cạnh tranh đối với sản
phẩm doanh nghiệp đang kinh doanh. Chính vì vậy để nâng cao sức cạnh tranh của
mình, doanh nghiệp cần tận dụng những lợi thế nhất định, đề ra những chiến lược
kinh doanh phù hợp để có được thành công và hiệu quả nhất. Một trong những
chiến lược đó là nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp, đưa sản phẩm
đến gần gũi hơn với người tiêu dùng, tạo được những lợi thế cạnh tranh cho sản
phẩm đối với các sản phẩm của đối thủ.
1.1.2. Khái niệm sức cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh: là khả năng dành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị phần của
đồng nghiệp (Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB từ điển Bách khoa Hà
Nội, trang 349).
Sức cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh
nhưng phải nhiều về lượng hoặc giá trị tiêu thụ trong khi có nhiều người cùng bán loại
sản phẩm đó trên thị trường. Sức cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của
loại sản phẩm đó.
Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 317, tháng 10 năm 2004 của TS Nguyễn
Văn Thanh: “Sức cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản phẩm có được
nhằm duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh”
Sức cạnh tranh sản phẩm được nhận biết thông qua lợi thế cạnh tranh của
sản phẩm đó với các sản phẩm khác cùng loại. Hay sức cạnh tranh sản phẩm là tính
hiện hữu của quá trình khai thác các lợi thế cạnh tranh hay ưu thế, đặc điểm nào đó
của sản phẩm đang nghiên cứu so với sản phẩm cùng loại trên cùng một thị trường
và trong một khoảng thời gian xác định.
Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm là tạo ra cho sản phẩm những ưu điểm,
biểu hiện ở chất lượng, giá bán, sự khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ,...
Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm cửa HVWindowslà tạo ra cho sản phẩm
này những đặc điểm, những ưu thế vượt trội, những sự khác biệt so với những sản
14