1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 110 trang )


đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con

người (khác với doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, quá trình sản xuất lại bằng

phương pháp sinh học là chủ yếu).

- Các đối tượng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp: sau mỗi chu

kỳ sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển

sang các sản phẩm có công dụng cụ thể khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau

quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có các công dụng khác

nhau (nếu so sánh với các doanh nghiệp nông nghiệp thì đối tượng lao động

của doanh nghiệp nông nghiệp bao gồm các động vật và thực vật sau quá trình

sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu).

- Sản phẩm của các DN công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu

cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội, là hoạt động duy nhất tạo ra các

sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế.

Với các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất của các doanh nghiệp

công nghiệp nêu trên, trong quá trình phát triển, doanh nghiệp công nghiệp

luôn có điều kiện phát triển về kỹ thuật, tổ chức sản xuất; dễ dàng tạo ra được

một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác phong “công

nghiệp”; đồng thời, có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày

càng sâu, tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ

và tính chất cao hơn so với doanh nghiệp ở các ngành khác.

1.1.1.2.



Phân loại doanh nghiệp công nghiệp



Hiện nay, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có một lượng lớn

các DNCN đang hoạt động. Những DNCN này đều có những đặc trưng cơ bản

giống nhau nhưng đồng thời chúng có những đặc điểm cụ thể rất khác nhau. Để

nghiên cứu và phục vụ cho công tác quản lý cần phải tiến hành việc phân loại

DNCN. Việc phân loại như vậy giúp ta hệ thống hoá các loại DNCN, có thể

nắm bắt và nghiên cứu cụ thể từng loại hình DNCN và là cơ sở để xác định các

chính sách, biện pháp quản lý phù hợp .

- Căn cứ theo quy mô : Các doanh nghiệp công nghiệp được chia thành

các DN quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ. Quy mô được phản ánh chủ

yếu theo 2 tiêu thức: Số lao động và số vốn tính bằng tiền. Theo Điều 3, Nghị



-7-



định số 90/2001/ NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp DN nhỏ

và vừa quy định: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là DN có vốn đăng ký không quá

10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.

- Dưới góc độ đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, các yếu tố đầu vào và đầu ra,

người ta phân loại theo ngành nghề sản xuất kinh doanh chính. Theo cách phân

loại này, doanh nghiệp công nghiệp chia làm 3 nhóm:

 Công nghiệp khai thác

 Công nghiệp chế biến

 Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí và nước.

Sự phân loại này là hoàn toàn cần thiết để nghiên cứu các vấn đề thực tế

của doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề tạo vốn và sử dụng vốn cũng như việc xác

định các chỉ tiêu bình quân của ngành làm căn cứ vạch kế hoạch kinh doanh

cho các doanh nghiệp. Do đòi hỏi của quá trình chuyên môn hoá và hợp tác

hoá, các doanh nghiệp có thể kinh doanh đa ngành nhưng thường tập trung vào

một ngành sản xuất kinh doanh chủ yếu có trình độ chuyên môn hoá sâu. Xem

xét cơ cấu ngành nghề trong hệ thống doanh nghiệp công nghiệp và xu hướng

vận động của nó có thể cho phép đánh giá những yếu tố khách quan ảnh hưởng

đến hệ thống cũng như các quan điểm của Nhà nước về các ngành nghề cần

nắm giữ trong từng thời kỳ.

- Theo tính chất sở hữu, doanh nghiệp công nghiệp bao gồm :

 Doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước

 Doanh nghiệp công nghiệp ngoài Nhà nước : doanh nghiệp tập thể,

doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh,...

 Doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

1.1.1.3.



Vị trí, vai trò của doanh nghiệp công nghiệp



Trong hệ thống kinh tế quốc dân, doanh nghiệp công nghiệp có vị trí rất

quan trọng, đó là:

- Doanh nghiệp công nghiệp là một đơn vị sản xuất cơ sở. Doanh nghiệp

là nơi trực tiếp kết hợp lao động của con người với các tư liệu sản xuất để tạo ra



-8-



của cải mới cho xã hội. Doanh nghiệp công nghiệp là một mắt xích quan trọng

của quá trình tái sản xuất mở rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Doanh nghiệp công nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản của nền kinh tế

quốc dân. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân nói chung, của

ngành công nghiệp nói riêng. Vì vậy, doanh nghiệp công nghiệp được coi là

đơn vị kinh tế cơ sở, nơi không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn tạo ra thu

nhập quốc dân và nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

- Doanh nghiệp công nghiệp là một tổ chức kinh doanh và là một trường

học quản lý. Doanh nghiệp công nghiệp là một đơn vị tổ chức xã hội, nơi hàng

ngày người lao động ứng dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật và thực hiện

quyền làm chủ của mình. Không những thế, mỗi doanh nghiệp công nghiệp còn

là một trường học quản lý kinh tế, là nơi rèn luyện con người mới, hình thành

tác phong công nghiệp mang phong cách của nền sản xuất đại công nghiệp.

Với vị trí như vậy, đối với các quốc gia, doanh nghiệp công nghiệp có

mặt ở hầu hết các ngành sản xuất trong nền kinh tế. Ngoài những ngành sản

xuất ở lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ nó còn bao gồm cả trong

ngành chế biến nông lâm sản, thuỷ hải sản, lương thực thực phẩm, hoá chất,

điện tử... Doanh nghiệp công nghiệp cũng có mặt trên tất cả các vùng kinh tế,

các ngành kinh tế kĩ thuật kể cả quốc phòng và an ninh và ở trong tất cả các

thành phần kinh tế khác nhau. Có thể nêu lên một số vai trò cụ thể của nó như

sau:

- Doanh nghiệp công nghiệp phát triển sẽ bảo đảm đáp ứng trực tiếp nhu

cầu đa dạng, phong phú và ngày càng tăng của xã hội. Từ nhu cầu đơn giản,

thông thường tối thiểu đến những nhu cầu cao cấp, phức tạp.

- Doanh nghiệp công nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các

ngành kinh tế khác, nhất là nông, lâm, ngư nghiệp. Thông qua các doanh

nghiệp công nghiệp, các sản phẩm trung gian của các ngành đã trở thành hàng

hoá, thu nhập dân cư tăng lên.

- Doanh nghiệp công nghiệp phát triển sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng

xuất khẩu vừa thay thế hàng nhập khẩu, tiết kiệm nhiều ngoại tệ. Qua đó có thể

đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị... Kinh nghiệm từ các nước công



-9-



nghiệp phát triển cho thấy tỷ lệ hàng hoá xuất khẩu góp phần rất quan trọng

trong cơ cấu nền kinh tế mà sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ các doanh

nghiệp công nghiệp.

- Doanh nghiệp công nghiệp phát triển sẽ góp phần tích luỹ vốn đầu tư

vào sản xuất, nâng cao tỷ trọng đầu tư trong GDP nhất là những ngành sản xuất

các sản phẩm tiêu dùng có giá trị thặng dư cao: thuốc lá, bia, chất dẻo. Nếu có

chính sách phát triển đúng sẽ góp phần lớn vào tích luỹ cho nền kinh tế quốc

dân.

- Doanh nghiệp công nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy các ngành nghề khác

phát triển các mạng lưới gia công, sơ chế từ thành thị đến nông thôn, thu hút

nhiều lao động, góp phần rất lớn vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Số lao động sẽ chuyển dịch từ nông nghiệp

sang công nghiệp có thể tiến hành ngày tại chỗ chứ không nhất thiết phải thu

hút vào thành thị.

1.1.2.



Vốn của doanh nghiệp công nghiệp



1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp công nghiệp

a. Khái niệm của vốn



Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần có một nguồn lực tài chính nhất

định để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn lực tài chính được

thể hiện và sử dụng dưới các dạng khác nhau nhằm mục đích thu được lợi ích

lớn hơn trong tương lai được coi là vốn của doanh nghiệp.

Trong cuốn Từ điển Longman rút gọn về Tiếng Anh kinh doanh, vốn

được định nghĩa như sau: “Vốn là tài sản tích luỹ được sử dụng vào sản xuất

nhằm tạo ra lợi ích lớn hơn; đó là một trong các yếu tố của quá trình sản xuất

(các yếu tố khác là đất đai và lao động). Trong kinh doanh, vốn được coi là giá

trị của tài sản hữu hình được tính bằng tiền, nghĩa là tài sản dưới dạng không

phải bằng tiền như nhà xưởng, máy móc thiết bị, dự trữ nguyên vật liệu”.

Cũng trong cuốn Từ điển nêu trên, vốn của doanh nghiệp được hiểu là

“lượng tiền mà các chủ sở hữu doanh nghiệp bỏ vào để mua tài sản hữu hình

nhằm khởi sự và tiến hành kinh doanh”.



- 10 -



Các quan niệm đã nêu về vốn đều phản ánh được khía cạnh nào đó liên

quan đến nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, tuy nhiên, các khái niệm đó

được trình bày dưới các góc nhìn khác nhau và mục tiêu nghiên cứu khác nhau,

vì vậy chưa thể hiện một cách nhìn tổng thể về vốn của doanh nghiệp.

Vốn có thể có nhiều dạng khác nhau, được phân nhóm thành hai loại:

Vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền. Vốn bằng tiền được coi là nguồn lực tài

chính của doanh nghiệp. Nguồn tài chính này là cơ sở để có được các điều kiện

sản xuất, tức là các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, địa điểm sản xuất kinh

doanh, thiết bị, nguyên vật liệu và các điều kiện khác.

Vốn của doanh nghiệp còn có thể được hiểu theo nghĩa hẹp, là số tiền và

tài sản hữu hình khác doanh nghiệp có được nguồn tài chính của chính mình,

tức là không tính đến nguồn tài chính doanh nghiệp có được nhờ đi vay. Tuy

nhiên, trên thực tế, người ta thường dùng vốn theo nghĩa rộng để chỉ toàn bộ

nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, không phân biệt nguồn huy động.

Từ những phân tích đã nêu trên có thể hiểu, vốn của doanh (theo cách

hiểu vốn tài chính) có thể coi là giá trị bằng tiền của tất các các nguồn lực có

thể chuyển thành tiền, được doanh nghiệp nắm giữ và sử dụng nhằm mục đích

thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai, không phân biệt nguồn gốc hình thành

và không phân biệt hình thái biểu hiện.

Thông thường, giá trị doanh nghiệp bao gồm cả giá trị hữu hình và giá trị

vô hình của doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế, khi đánh giá vốn của doanh

nghiệp người ta chỉ tính đến các giá trị hữu hình, chính vì vậy, vốn cũng có thể

hiểu khác với phạm trù “giá trị doanh nghiệp”.

Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ khi thành lập doanh nghiệp và

biến đổi theo thời gian. Với những doanh nghiệp kinh doanh thành công, vốn

của doanh nghiệp có chiều hướng tăng trưởng, vì sau mỗi chu kỳ kinh doanh,

vốn ban đầu lại bổ sung bằng một phần lợi nhuận thu được (lợi nhuận dùng để

tái đầu tư). Phần bổ sung này nhiều hay ít phụ thuộc vào mức độ sinh lợi trong

kinh doanh và chính sách tăng trưởng của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp

có chiến lược phát triển dài hạn thường rất chú ý dùng lợi nhuận để tái đầu tư,

vì nếu không tăng cường tái đầu tư thì sớm hay muộn, doanh nghiệp đó sẽ thất

bại. Ngoài ra, do nhu cầu của đầu tư, của quá trình sản xuất kinh doanh, vốn có

- 11 -



thể được huy động bổ sung từ các nguồn khác nhau, do đó làm tăng vốn của

DN.

Tuy vậy, với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì nguồn vốn ban

đầu sẽ bị giảm dần. Tình trạng này đã xảy ra với nhiều doanh nghiệp Nhà nước,

có thể do cả hai nguyên nhân: kinh doanh thua lỗ (không thực hiện tái đầu tư

mở rộng) và không thực hiện đủ khấu hao tài sản cố định (không đảm bảo tái

đầu tư giản đơn).

Như vậy, vốn ban đầu của doanh nghiệp có thể tăng lên hoặc giảm đi do

hai nhóm yếu tố khách quan và chủ quan, phụ thuộc vào mức độ hiệu quả và

chính sách đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn của

doanh nghiệp tại mỗi thời điểm bao gồm vốn ban đầu, vốn tích luỹ từ lợi nhuận

và vốn huy động bổ sung trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

b. Đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp công nghiệp



Vốn là tiền đề vững chắc, là điều kiện tiên quyết để bắt đầu quá trình sản

xuất kinh doanh. Trên các góc độ khác nhau vốn kinh doanh được nhìn nhận

cũng khác nhau; song nhìn chung vốn kinh doanh của doanh nghiệp công

nghiệp mang những đặc trưng sau:

Thứ nhất, vốn phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản thực hay nói

cách khác biểu hiện của vốn là giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình

trong doanh nghiệp. Song không phải mọi tài sản đều được coi là vốn chỉ

những tài sản có giá trị được sử dụng vào sản xuất kinh doanh mới được coi là

vốn kinh doanh.

Thứ hai, vốn kinh doanh luôn vận động, lưu chuyển, sinh lời đạt mục

tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ

là dạng tiềm năng của vốn, để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được

vận động sinh lời. Đồng tiền sau quá trình chuyển hoá vận động trở về nơi xuất

phát sẽ mang lại giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý của đầu tư, sử dụng và bảo

toàn vốn. Vì vậy, đồng tiền bị ứ đọng, sức lao động, tài sản cất trữ không được

sử dụng thì chỉ là những đồng vốn “chết”. Nhận thức vấn đề này các doanh

nghiệp phải tìm mọi cách để cho đồng vốn sinh lời, tránh ứ đọng...



- 12 -



Thứ ba, vốn được quan niệm là một hàng hoá đặc biệt, tức là nó có giá trị

và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá này chính là giá trị của bản thân nó còn

giá trị sử dụng của nó là thông qua mua bán trên thị trường mà tạo ra một giá trị

sử dụng lớn hơn.

Thứ tư, vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường sức

mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau cũng sẽ khác nhau, mặt khác trên

quan điểm kinh doanh yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải sử dụng tốt

đồng vốn của mình: xem xét hiệu quả kinh doanh trên góc độ mới là mỗi đồng

vốn đầu tư vào kinh doanh phải không ngừng vận động và không ngừng sinh

lời.

Thứ năm, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình

mà còn được biểu hiện bằng tiền của những tài sản vô hình như vị trí kinh

doanh, nhãn hiệu, bản quyền, bằng phát minh sáng chế,... Như vậy, trong nền

kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp bao gồm: giá trị về tài sản cộng với giá

trị về lợi thế, giá trị tiềm tàng...

Thứ sáu, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới

có thể phát huy tác dụng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nếu đồng vốn nằm

phân tán, rải rác hay không đủ lớn thì việc thực hiện dự án đầu tư không thành,

doanh nghiệp đánh tuột mất cơ hội làm ăn. Do vậy doanh nghiệp phải luôn tìm

mọi biện pháp tối ưu khai thác, thu hút và tạo lập lượng vốn đủ lớn đáp ứng nhu

cầu đầu tư kinh doanh.

Thứ bảy, vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định, nghĩa là vốn phải có

chủ mới đảm bảo quản lý và chi tiêu hợp lý, có hiệu quả, những đồng vốn vô

chủ thường bị sử dụng lãng phí kém hiệu quả. Việc phân định rõ chủ sở hữu

thực sự về vốn đang là vấn đề quan tâm nhằm tăng cường thu hút vốn nhàn rỗi

từ dân cư, các tổ chức trong và ngoài nước vào các hoạt động đầu tư. Để thực

hiện được vấn đề này điều cơ bản cũng cần phải phân biệt rõ ràng quyền sở hữu

và quyền sử dụng vốn. Tuỳ theo lĩnh vực đầu tư mà người sở hữu có thể không

đồng nhất với người sử dụng vốn, song dù trong trường hợp nào thì người sở

hữu vốn vẫn được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và phải được tôn trọng quyền sở

hữu của mình.

- 13 -



Do đặc điểm của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp nên việc tập

trung vốn cũng có những đặc điểm riêng biệt: quy mô vốn lớn và tăng nhanh;

vốn cố định thường chiếm tỷ trọng lớn. Nguyên nhân là do: Thứ nhất, ngành

công nghiệp đòi hỏi nhiều vốn, chi phí sản xuất cao. Do đó, mặc dù ngành công

nghiệp có doanh thu lớn nhưng năng suất sử dụng vốn tương đối thấp so với

mặt bằng chung của nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, trong tổng vốn đầu tư cho

ngành công nghiệp thì phần đầu tư cơ bản chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng

tăng. Điều này trước hết do giá thành các máy móc công nghiệp cao, các chi

phí cho đại tu, bảo dưỡng định kỳ các loại máy móc công nghiệp cao. Đầu tư

nâng cấp phát triển kết cấu hạ tầng cho nền công nghiệp đòi hỏi khối lượng vốn

lớn. Hiện nay, Nhà nước đang đầu tư xây dựng một số doanh nghiệp công

nghiệp mũi nhọn để phát triển nền kinh tế hướng ngoại, ưu tiên cho xuất khẩu.

Hơn nữa, việc Việt Nam tham gia AFTA đang đòi hỏi các doanh nghiệp Việt

Nam phải đẩy mạnh tích tụ và tập trung vốn để nhanh chóng đổi mới thiết bị,

công nghệ mới....Do đó, vốn đầu tư cho tài sản cố định trong ngành công

nghiệp ngày càng tăng nhanh. Chính những đặc điểm này đã đặt ra yêu cầu cao

cho tích tụ và tập trung vốn lớn. Thực trạng của những năm qua trong lĩnh vực

huy động vốn cho công nghiệp càng đặt ra cho chúng ta phải có một định

hướng đúng về tích tụ vốn và các giải pháp khả thi mới hy vọng đẩy nhanh quá

trình phát triển công nghiệp Việt Nam.

Tóm lại, nhận thức trên đây về vốn kinh doanh không chỉ giúp cho việc

xác định đúng giá trị thực của doanh nghiệp mà còn giúp cho công tác quản lý

vốn có tầm nhìn rộng để khai thác những tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp

phục vụ đầu tư kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, hơn nữa sẽ đưa ra được

những phương án tối ưu giải quyết bài toán về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

trong doanh nghiệp.

1.1.2.2. Phân loại vốn trong doanh nghiệp công nghiệp



Tuỳ theo yêu cầu của công tác quản lý và sử dụng vốn mà có những cách

phân loại vốn khác nhau nhằm mục đích cuối cùng là đạt được các chỉ tiêu về

hiệu quả của đồng vốn. Thông thường có các cách phân loại sau:



- 14 -



- Phân loại vốn theo công dụng kinh tế và tính chất vận động của vốn:

theo cách phân loại này vốn trong doanh nghiệp được chia thành vốn cố định

và vốn lưu động.

Vốn cố định là giá trị của TSCĐ được biểu hiện bằng tiền. Nó là một bộ

phận quan trọng của vốn kinh doanh, được đầu tư dài hạn trong doanh nghiệp.

Đặc điểm cơ bản của vốn cố định là luân chuyển dần từng phần vào giá trị sản

phẩm mới tạo ra qua nhiều chu kỳ kinh doanh và được thu hồi qua khấu hao

TSCĐ. Đây là đặc điểm quan trọng các nhà quản lý cần phải nắm được trong

việc huy động vốn, nguồn để huy động vốn cố định thường là nguồn dài hạn.

Vốn lưu động là giá trị các đối tượng lao động trong doanh nghiệp được

biểu hiện bằng tiền. Đặc điểm cơ bản của vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá

trị ngay một lần vào giá trị sản phẩm. Vốn lưu động luân chuyển tuần hoàn liên

tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Từ

những đặc điểm trên ta thấy quản lý và sử dụng vốn lưu động là bộ phận quan

trọng trong công tác quản lý tài chính của mỗi doanh nghiệp. Trong đó cần phải

xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động giúp cho doanh nghiệp đảm bảo vốn

lưu động để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng ứ đọng vốn.

Trên cơ sở đó doanh nghiệp nên có những biện pháp khai thác và huy động các

nguồn tài trợ nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và thực hiện tốt công tác quản lý và sử

dụng vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động sản

xuất kinh doanh.

- Phân loại theo nguồn gốc hình thành. Phân loại theo cách này nhằm

hiểu được vốn của doanh nghiệp do đâu mà có. Do đó, có thể xác định rõ khả

năng vốn của doanh nghiệp và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với đối tượng

đã cung cấp vốn cho mình. Theo cách phân chia này, vốn được chia thành hai

loại vốn chủ sở hữu và vốn huy động từ bên ngoài.

Vốn chủ sở hữu là vốn mà doanh nghiệp tự có, hình thành từ vốn pháp

định và vốn tự bổ sung từ nhiều nguồn lợi nhuận giữ lại, các quĩ đầu tư phát

triển, quĩ dự phòng tài chính...Ngoài ra còn bao gồm toàn bộ khấu hao cơ bản

sử dụng tài sản cố định để đầu tư thay thế, đổi mới tài sản cố định. Với các

doanh nghiệp cổ phần thì vốn chủ sở hữu được bổ sung dễ dàng thông qua bán

cổ phiếu.

- 15 -



Vốn huy động từ bên ngoài được thể hiện dưới hình thức vay nợ, liên

doanh liên kết phát hành trái phiếu và các hình thức khác. Đối với một doanh

nghiệp trong cơ chế thị trường, vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhưng

chỉ chiếm tỷ lệ nhất định. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, doanh

nghiệp cần phải tăng cường huy động vốn từ bên ngoài. Việc xác định cơ cấu

vốn tự có và vốn huy động ngày càng trở lên quan trọng. Qui mô kinh doanh

càng lớn thì tỷ lệ vốn huy động càng cao. Những doanh nghiệp làm ăn phát đạt

họ vẫn phải huy động vốn bằng hình thức vay nợ. Trong kinh doanh các doanh

nghiệp có thể chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác bằng những khoản

nợ thông qua việc mua bán hàng hoá. Những doanh nghiệp có khả năng huy

động vốn tốt thì sẽ thuận lợi trong quá trình hoạt động kinh doanh

- Phân loại theo thời gian. Cách phân loại này vốn của doanh nghiệp bao

gồm vốn dài hạn và vốn ngắn hạn. Vốn dài hạn có thời gian hoàn trả lớn hơn 1

năm, vốn ngắn hạn có thời gian hoàn trả dưới 1 năm. Vốn dài hạn thường được

huy động từ việc bán trái phiếu, cổ phiếu, vay dài hạn, thuê mua. ...mà nơi giao

dịch chủ yếu là thị trường vốn. Loại vốn dài hạn thường được tài trợ cho tài sản

cố định và một phần chi phí thường xuyên.

- Theo mức độ tham gia của vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh có

thể chia vốn của doanh nghiệp thành 2 bộ phận: Vốn luân chuyển và vốn ngoài

luân chuyển. Vốn luân chuyển là số vốn tham gia trực tiếp vào quá trình sản

xuất kinh doanh. Vốn ngoài luân chuyển không trực tiếp tham gia vào sản xuất

kinh doanh như khoản thế chấp, ký quỹ, TSCĐ không cần dùng...

1.1.2.3.



Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp công nghiệp



Nói đến kinh doanh là ta thưòng nói đến vấn đề vốn. Bất kỳ một hoạt

động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải có một lượng vốn nhất định. Nó là

điều kiện cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp

Trước hết về mặt pháp lý, muốn thành lập doanh nghiệp thì phải có một

lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Tuỳ từng

ngành nghề kinh doanh mà vốn pháp định được qui định khác nhau. Vốn pháp

định là một trong nhứng điều kiện quan trọng để thành lập doanh nghiệp. Đảm

bảo được điều kiện đó thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập,



- 16 -



nếu không thì việc thành lập doanh nghiệp sẽ không được thực hiện. Trong quá

trình kinh doanh của doanh nghiệp cũng phải đảm bảo đủ vốn pháp định. Nếu

vốn điều lệ của doanh nghiệp không đảm bảo đủ vốn pháp định thì cơ quan có

thẩm quyền quyết định thành lập DN đó phải yêu cầu cấp bổ sung vốn điều lệ

hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập. Như

vậy, vốn có thể được xem là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự ra đời và tồn

tại của doanh nghiệp.

Mục đích của doanh nghiệp là thu hút được lợi ích từ các hoạt đông sản

xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì nhất thiết phải

có các yếu tố đầu vào là nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và để có

được các yếu tố này thì cần phải có vốn. Như vậy không có vốn thì doanh

nghiệp không thể nào hoạt động được, hay nói cách khác vốn là yếu tố quyết

định sự tồn tại của doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình và qui mô kinh doanh mà

trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cần nhiều hay ít vốn.

Vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của

DN và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Trong môi trường

cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường, doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và

phát triển được khi có ưu thế cạnh tranh. Một trong những ưu thế cạnh tranh

lớn là công nghệ máy móc thiết bị hiện đaị, tức là có vốn lớn. Đối với một

doanh nghiệp có vốn lớn họ đầu tư mua sắm thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến

thì sản phẩm làm ra sẽ có chất lượng cao, giá thành hạ và tất nhiên sản phẩm sẽ có

sức cạnh tranh cao trên thị trường. Hơn nữa có vốn lớn, DN có thể chi nhiều hơn

cho quảng cáo, xúc tiến bán hàng, cho nghiên cứu phát triển, từ đó cũng tạo cơ hội

cạnh tranh lớn cho doanh nghiệp. Có vốn lớn DN có cơ hội mở rộng phạm vi



hoạt đông của mình, doanh nghiệp có thể đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh

mới hoặc cũng có thể cải tiến sản phẩm hoặc mở rộng phạm vi phân phối....

Vốn vừa là công cụ để cạnh tranh vừa là công cụ để tự vệ trong cuộc

cạnh tranh đó. Một doanh nghiệp đang hoạt động trong một lĩnh vực nào đó

nếu có một doanh nghiệp mới tham gia vào lĩnh vực đó thì DN nào có vốn lớn

họ sẽ chấp nhận lỗ một thời gian, họ sẽ phá giá sản phẩm để bóp nghẹt doanh

nghiệp mới kia. Hoặc là trên thị trường có rất nhiều hãng cùng kinh doanh một

loại sản phẩm thì doanh nghiệp có vốn lớn họ sẽ đầu tư nghiên cứu cải tiến sản

phẩm hoặc đầu tư vào sản phẩm mới.

- 17 -



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

×