1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 110 trang )


CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HUY ĐỘNG

VÀ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ TRONG CÁC DOANH

NGHIỆP CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

3.1.



ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG CHIẾN

LƢỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010



3.1.1.



Các quan điểm phát triển công nghiệp Việt Nam



Nghị quyết Trung ương IX đã đưa ra các quan điểm định hướng phát

triển công nghiệp sau đây:

- Công nghiệp giữ vai trò động lực và nòng cốt trong quá trình CNH HĐH đất nước. Không có sự phát triển công nghiệp thì dù nền kinh tế có nhiều

khu vực, nhiều cơ sở đã được trang bị hiện đại cũng chưa là một nước công

nghiệp hoá. Xét về phương diện cơ cấu kinh tế, công nghiệp phải trở thành bộ

phận cấu thành cơ bản và quan trọng nhất, có tỷ trọng lớn trong nền kinh tế mới

được xem là một nước công nghiệp, một tiêu thức rất quan trọng của công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp có tác động quyết định đối với quá trình

hiện đại hoá nông nghiệp về các mặt : bảo đảm đào vào, chế biến ở đầu ra,

trang bị và đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất nông nghiệp... Sự tăng

trưởng và hiện đại hoá của khu vực dịch vụ cũng trước hết phụ thuộc vào công

nghiệp. Đây là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu trong phát triển kinh tế

ở nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác. Vì vậy phải tạo điều kiện

cho công nghiệp phát triển với nhịp độ cao và có hiệu quả liên tục trong nhiều

năm, bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và chuyển dịch từng bước cơ

cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập nền kinh tế khu

vực và thế giới.

- Phát triển công nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế

nhập khẩu có hiệu quả. Kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp mới và của

bản thân nước ta đã xác nhận đây là một hướng chiến lược cơ bản của quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những đ iều kiện của thế giới ngày nay. ở

- 87 -



nước ta, phải tận dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy

nhanh nhịp độ phát triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu.

Xuất khẩu càng nhiều kinh tế tăng trưởng càng nhanh, có hiệu quả và bền

vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Thị

trường trong nước với số dân đông và sức mua ngày càng lớn là đối tượng rất

quan trọng mà công nghiệp phải đáp ứng cho được nhiều nhu cầu cơ bản, từ

những hàng tiêu dùng thông thường đến các hàng tiêu dùng cao cấp và nhiều

loại tư liệu sản xuất của nền kinh tế. Để thực hiện phương hướng này, điều

quyết định là nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp trên thị

trường trong nước thị trường khu vực và thế giới trên cơ sở nâng cao năng suất

chất lượng và hiệu quả.

- Thực hiện phát triển công nghiệp với nhiều thành phần kinh tế tham gia

theo cơ chế thị trường, mở cửa có sự quản lý của Nhà nước. Đổi mới và củng

cố các doanh nghiệp Nhà nước nhằm tạo động lực thật sự và hiệu quả trong

từng doanh nghiệp, tạo sức mạnh tổng hợp trong hợp tác sản xuất kinh doanh,

đồng thời tạo được cơ chế hướng dẫn, giám sát của nhà nước với tư cách chủ sở

hữu. Khai thác mọi tiềm năng kinh tế tư nhân, khả năng liên doanh hợp tác với

nước ngoài tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và liên kết hợp tác giữa các

doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Từng bước hình thành các tập đoàn hoặc

Công ty lớn làm đầu tầu ở trong nước và đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu

vực và thế giới.

- Năng lực nội sinh là cơ sở cho sự tiếp nhận năng lực ngoại sinh, sự phát

triển bền vững ở trong nước cả về kinh tế và xã hội là cơ sở cho quan hệ kinh tế

đối ngoại - nguyên tắc này cần được quán triệt trong việc tạo vốn và tạo công

nghệ hiện đại.

Công nghệ hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn

vinh của một quốc gia, quyết định sức mạnh cạnh tranh kinh tế quốc tế. Chỉ có

thể thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển và tham gia vào quá trình phân

công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ quốc gia,

- 88 -



tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến cần xây dựng những lực lượng nghiên

cứu và triển khai mạnh mẽ để đủ sức tiếp nhận những công nghệ mới, hiện đại

tạo ra những công nghệ đặc thù cho đất nước. Tranh thủ đi nhanh vào hiện đại

ở những khâu quyết định, tạo ra một số ngành mũi nhọn trong phát triển của

từng giai đoạn.

3.1.2. Chiến lƣợc huy động và sử dụng vốn cho phát triển công

nghiệp



Chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường , một yêu cầu

bức bách đặt ra là việc hoạch định chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn.

Chiến lược này phải gắn vào các mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược ổn định

và phát triển công nghiệp đến năm 2010. Tư tưởng cơ bản của chiến lược huy

động và sử dụng vốn là tìm cách khơi dậy, thu hút mọi nguồn vốn với các chính

sách khuyến khích sử dụng vốn có hiệu quả, đúng mục tiêu.

3.1.2.1.



Cân đối vốn trong nước và ngoài nước, trong đó vốn trong



nước là quyết định cho sự phát triển công nghiệp



Để xây dựng được một chiến lược khả dụng, trước hết cần đánh giá, dự

kiến sát các khả năng về nguồn vốn huy động trong tương lai. Những năm tới,

nguồn vốn trong nước vẫn giữ một vai trò hết sức trọng yếu. Đối với nguồn vốn

trong nước, vốn của khu vực kinh tế Nhà nước sẽ không lớn. Do đó, đi đôi với

việc huy động tốt các nguồn vốn trong dân phải đề cao tiêu chuẩn hiệu quả sử

dụng vốn ở khu vực Nhà nước. Nguồn vốn từ ngân sách, những năm tới tuy

không tăng nhưng chỉ cần sử dụng tốt số vốn hiện có ở các doanh nghiệp Nhà

nước thì cũng có thể đóng vai trò quyết định trong tổng vốn đầu tư. Đó cũng là

một khả năng thực tế xuất phát từ các căn cứ khả năng nâng hệ số sử dụng công

suất máy móc thiết bị, bán các doanh nghiệp bị thua lỗ. Nguồn vốn trong dân

hết sức quan trọng trong chiến lược tạo vốn, trong việc xây dựng các chính

sách, biện pháp huy động vốn những năm tới. Nguyên tắc chung của chính sách

huy động vốn trong nước là : khuyến khích mọi thành phần kinh tế mở mang



- 89 -



tạo lập doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư chiều sâu, đồng bộ hóa máy móc

thiết bị......

Ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn

vốn rất lớn, trong khi nguồn vốn trong nước còn rất hạn hẹp thì cần huy động

thêm vốn nước ngoài phục vụ cho nhu cầu phát triển. Kinh nghiệm phát triển

công nghiệp của các quốc gia và lãnh thổ đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ

giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, nếu muốn tiếp nhận vốn nước ngoài

thì trước hết phải tăng cường vốn trong nước. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng cứ

gọi được nhiều vốn nước ngoài là có thể tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Điều

quan trọng là phải tạo ra các biện pháp như: ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát,

tạo môi trường kinh doanh thuận lợi với những thủ tục đơn giản, nhanh nhất,

tiền vay phải đến đúng những đối tượng cần vay....đặc biệt phải đầu tư nhiều

vào công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp mũi nhọn, tránh đầu tư quá

nhiều vào bất động sản....Thông thường khối lượng vốn đầu tư trong nước có

thể tích tụ và tập trung được phụ thuộc vào các yếu tố:

- Quy mô và tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập quốc dân

- Chính sách của Nhà nước

- Quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng của các hộ gia đình, các doanh

nghiệp, của các thành phần kinh tế.

3.1.2.2.



Cải cách hành chính, lành mạnh hóa quan hệ giữa Nhà nước



với các DN



Để huy động vốn trong công nghiệp có hiệu quả thì phải giảm tối đa các

phiền hà cho dân, tạo điều kiện cho người dân lập doanh nghiệp, vay vốn được

dễ dàng, cần phải giảm bớt các thủ tục, các giấy tờ và quy chế rõ ràng.....Chính

điều này nói lên rằng, Việt nam muốn đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và

hiện đại hóa đất nước, chúng ta phải huy động tối đa nguồn vốn còn nằm rải rác

trong dân cư, ưu tiên cho phát triển chứ không phải tiêu xài cá nhân.



- 90 -



3.1.2.3.



Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy - đầu tư và tái đầu



tư cho phát triển công nghiệp



Những kinh nghiệm trong phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển

nền kinh tế nói chung trong hơn thập kỷ qua đã cho thấy mặc dù tích tụ, tập

trung vốn là điều kiện cần, nhưng để đạt tới mục tiêu tăng trưởng nhanh và lâu

bền thì phải có những quan điểm đúng đắn và những giải pháp cụ thể, khoa học

nhằm tích lũy các nguồn vốn để phát triển công nghiệp và cả nền kinh tế trong

từng thời kỳ.

Trước mắt, vốn đầu tư cần tập trung mạnh mẽ cho khu vực công nghiệp

chế biến sản xuất các loại hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu với mục đích thu

hồi đựợc vốn nhanh và tạo ra sự phong phú cho thị trường hàng hóa, đồng thời

tìm kiếm và tiến tới ổn định thị trường ngoài nước với những mặt hàng xuất

khẩu chủ lực có khả năng cạnh tranh mạnh

Giai đoạn tiếp theo cần ưu tiên vốn đầu tư cho phát triển một số ngành

công nghiệp then chốt như: Luyện thép, cơ khí, vật liệu mới...để bước vào sản

xuất các hàng tiêu dùng cao cấp: Tủ lạnh, xe máy, ôtô và các máy động lực...

chất lượng cao

Trong cả giai đoạn nhằm đáp ứng nhu cầu giao lưu về hàng hóa, cần

nhanh chóng xây dựng và hoàn chỉnh các công trình đầu tư cho kết cấu hạ tầng

như: các phương tiện giao thông, điện, nước, đặc biệt là thông tin liên lạc.

Chính cuộc cách mạng trong lĩnh vực thông tin sẽ làm thay đổi phong cách làm

việc chậm chạp, kém hiệu quả của các doanh nghiệp để thúc đẩy các doanh

nghiệp phải đổi mới máy móc thiết bị, hệ thống quản lý...Nền công nghiệp Việt

nam trong tương lai phải biết ưu tiên cho việc phát triển công nghiệp điện tử,

công nghiệp chế tạo và công nghiệp lắp ráp

3.2.



NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP

HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ



Có thể nói thiếu vốn là một trong những hạn chế lớn nhất đối với phát

triển công nghiệp hiện nay, đặc biệt là thiếu vốn dài hạn. Giải pháp để giải

- 91 -



quyết khó khăn về vốn phải là giải pháp mang tính tổng hợp của nhiều giải

pháp nhỏ như: giải pháp về thị trường vốn, chính sách tận dụng nguồn vốn

trong nước, chính sách khuyến khích đầu tư của mọi thành phần vốn vay ưu đãi

ODA và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, theo tôi cần thực hiện tốt các

giải pháp sau:

3.2.1. Giải pháp chung



Để khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao khả năng mở rộng, phát

triển nguồn vốn từ chính kết quả sản xuất kinh doanh, khai thác và sử dụng có

hiệu quả mọi tiềm năng hiện có trong doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp tự huy động vốn từ dân cư, các tổ chức tín dụng, thị trường vốn

trong và ngoài nước, cần tập trung vào các giải pháp sau:

- Nghiên cứu và sửa đổi chính sách thuế, đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa

vụ nộp thuế. Ưu đãi về thuế áp dụng cho các doanh nghiệp mới đi vào sản xuất

kinh doanh, các doanh nghiệp dùng lợi nhuận để tái đầu tư, doanh nghiệp xuất

khẩu có hiệu quả, doanh nghiệp đầu tư chiều sâu và đổi mới thiết bị, ....

- Xác định và đánh giá lại giá trị tài sản của các doanh nghiệp để có

những căn cứ quản lý trong nội bộ doanh nghiệp và tạo ra các căn cứ pháp lý

đối với các doanh nghiệp để vay vốn ngân hàng thương mại khi phải sử dụng

căn cứ này để thế chấp. Hiện nay, việc tạo ra căn cứ thế chấp chậm và chưa có

quy định thống nhất đang là những khó khăn nổi cộm đối với các doanh nghiệp

trong việc vay vốn.

- Cần có những quy định thống nhất để tất cả các doanh nghiệp trong nền

kinh tế được quyền sử dụng chủ động và linh hoạt các nguồn vốn, các quỹ đáp

ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh kịp thời, huy động các nguồn vốn trong nước

thông qua các hình thức liên doanh liên kết, hợp tác kinh doanh, phát hành cổ

phiếu và trái phiếu, huy động vốn nước ngoài thông qua hình thức góp vốn liên

doanh, vay nợ nước ngoài.



- 92 -



- Mở rộng tín dụng trung hạn và dài hạn, giảm dần lãi suất đầu ra của các

ngân hàng thương mại để các doanh nghiệp mở rộng được nguồn vốn tín dụng

đầu tư, đảm bảo giá mua quyền sử dụng vốn dần dần phù hợp với mục tiêu kinh

doanh. Đồng thời, Nhà nước cần có quy định ràng buộc đối với các ngân hàng

thương mại trong việc đảm bảo tỷ lệ tín dụng đầu tư đối với doanh nghiệp, áp

dụng lãi suất ưu đãi đối với doanh nghiệp cần được khuyến khích đầu tư

3.2.2.



Các giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng có



hiệu quả các nguồn vốn

3.2.2.1.



Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn



Hiện nay có rất nhiều hình thức huy động vốn thích hợp với các doanh

nghiệp trong các điều kiện nhất định, vì vậy, có thể sử dụng nhiều hình thức

khác nhau đối với các nhu cầu khác nhau về vốn.

Huy động vốn thông qua các tổ chức ngân hàng

Đây là hình thức huy động vốn phổ biến nhất đối với các nhu cầu vốn

ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân hàng phải là bạn hàng của doanh nghiệp,

bởi vì trong nền kinh tế thị trường, cũng như các tổ chức kinh doanh khác, ngân

hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ. Từ góc độ kinh doanh, ngân hàng cũng

phải đối xử với các bạn hàng như là “thượng đế”. Ở nước ta hiện nay khi mà thị

trường chứng khóan còn chưa hoạt động rộng khắp thì nhiệm vụ huy động vốn

là vấn đề trung tâm của các ngân hàng

Tuy nhiên, như đã nêu ở phần 2, hiện nay huy động vốn trung và dài hạn

qua ngân hàng còn hạn chế, do rất nhiều nguyên nhân. Do đó, bên cạnh nguồn

vốn huy động dưới dạng tín dụng ngân hàng, có thể huy động thêm vốn của

ngân hàng dưới vốn góp (vốn cổ phần) theo quyết định mới đây của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam. Cách huy động này, ngoài tác dụng đáp ứng nhu cầu về

vốn, còn tạo thêm sợi dây gắn bó ngân hàng và doanh nghiệp, tạo điều k iện

giảm bớt tình trạng thông tin không cân xứng (không hoàn hảo) giữa ngân hàng

và doanh nghiệp, do đó giảm bớt độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân

hàng và tăng cơ hội vay vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp.

- 93 -



Để đẩy mạnh việc huy động vốn qua tổ chức này cần thực hiện một số

giải pháp sau:

- Cải tiến thủ tục cho vay sao cho gọn nhẹ, hiệu quả và nhanh nhất.

- Cần phát huy và liên kết chặt chẽ 4 loại thị trường nhằm huy động vốn

có hiệu quả,đó là: Thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái, thị trường tín

phiếu kho bạc, thị trường chứng khoán.

- Các ngân hàng cần tích cực chủ động tìm đến các doanh nghiệp công

nghiệp làm việc để cùng bàn bạc các dự án đầu tư có hiệu quả để từ đó mạnh

dạn cho vay vốn

- Có chính sách lãi suất ngân hàng hợp lý nhằm bắt buộc các ngân hàng

phải triệt để tiết kiệm chi phí trong kinh doanh nhằm giảm lãi suất cho vay.

Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính phi ngân hàng

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bao

gồm các Công ty tài chính và các Công ty bảo hiểm với những hoạt động khá

khiêm tốn, phạm vi hẹp, đối tượng phục vụ có giới hạn. Tuy vậy, nhiều doanh

nghiệp bắt đầu quan tâm hơn tới các hình thức này, do đó, cần có những thông

tin phổ biến hơn về các điều kiện huy động vốn từ các tổ chức đã nêu nhằm

khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các hình thức mới, đa dạng hoá nguồn vốn

nhằm tăng khả năng bảo đảm nhu cầu về vốn, đồng thời thúc đẩy tính cạnh

tranh giữa các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng. Một trong những hình thức

huy động các Công ty tài chính rất đáng quan tâm là hình thức tín dụng thuê

mua. Tuy nhiên, cần xem lại thủ tục và lãi suất của tín dụng thuê mua để tăng

sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp.

Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán

Thị trường tài chính thứ cấp ở nước ta hiện nay còn kém phát triển, mặc

dù thị trường chứng khoán đã hoạt động từ tháng 7 năm 2000, nhưng quy mô

hoạt động còn nhỏ bé, dung lượng giao dịch không đáng kể, hơn nữa phần lớn

mang tính chất thu lợi ngắn hạn. Vì vậy, theo tôi, trong tương lai gần khó có thể



- 94 -



coi đây là hình thức huy động vốn nhiều triển vọng. Mặc dù vậy, thị trường tài

chính vẫn là một kênh dẫn vốn quan trọng và tạo điều kiện luân chuyển vốn dễ

dàng hơn, đặc biệt có tác động tới hình thức đầu tư dưới dạng góp vốn vào

doanh nghiệp.

Huy động vốn thông qua hình thức tài trợ theo dự án.

Để tăng nguồn vốn cho các dự án đầu tư, các doanh nghiệp nên sử dụng

rộng rãi hơn hình thức tài trợ theo dự án, bao gồm cả phát hành trái phiếu theo

các công trình để huy động vốn. Hình thức này rất có lợi do mang tính độc lập

tương đối đối với các kết quả hoạt động khác của doanh nghiệp. Do đó, hình

thức đã nêu rất thích hợp với những doanh nghiệp cần vốn cho những công

trình lớn, nhưng đã vay nợ nhiều nên không thể huy động thêm vốn theo cách

thông thường. Tuy nhiên, đây là hình thức đòi hỏi có sự hỗ trợ của các tổ chức

tín dụng, đồng thời phải được chuẩn bị chu đáo để tạo lập uy tín cho dự án và

tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.

Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng phi chính thức.

Mặc dù nguồn vốn phi chính thức coi như nguồn vốn không được kiểm

soát và không được khuyến khích. Tuy vậy, không thể phủ nhận một thực tế là

hình thức huy động không chính thức này hiện nay là khá hấp dẫn đối với các

doanh nghiệp. Điều đó là do tính đơn giản trong việc huy động thông qua các

mối quan hệ tin cậy, tín nhiệm đối với bộ phận quản lý doanh nghiệp, tính kịp

thời khi huy động vốn, chi phí giao dịch thấp. Đây cũng là một cách làm rất có

hiệu quả để huy động các nguồn vốn đa dạng còn nhàn rỗi trong các tầng lớp

dân cư theo hình thức tài trợ trực tiếp. Để huy động được ngày càng nhiều vốn

trong dân dầu tư vào sản xuất công nghiệp cần xác định tiềm năng vốn trong

dân hiện nay. Đây là một vấn đề phức tạp, có nguồn gốc từ những hậu quả của

các chính sách trước đó. Về tâm lý, cần xóa bỏ tâm lý giàu nghèo, sợ mang

tiếng giàu đang phổ biến trong dân cư. Nhà nước cần có chính sách khuyến

khích dân chúng làm giàu, bảo vệ người giàu.



- 95 -



Để lựa chọn hình thức huy động vốn phù hợp, doanh nghiệp nên xem xét

các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, lĩnh vực và địa điểm đầu tư. Hiện nay một số lĩnh vực đầu tư

và địa điểm đầu tư thuộc danh mục khuyến khích đầu tư có thể được hưởng

những quy chế ưu đãi trong việc huy động vốn, thậm chí có thể được tài trợ

một phần vốn thông qua các tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài. Tuy

nhiên, cần chú ý rằng, thủ tục để có được các nguồn vốn đó khá phức tạp. Vì

vậy, không phải lúc nào vay vốn ưu đãi cũng có lợi, vì điều đó còn phụ thuộc

vào quy mô đầu tư và thời hạn đầu tư, bỏ qua cơ hội đầu tư do thủ tục phức tạp

cũng là một tổn thất của doanh nghiệp mà các khoản ưu đãi có thể không đủ để

bù đắp.

Thứ hai, quy mô đầu tư. Như trên đã nói, các dự án đầu tư có quy mô

nhỏ nên được tài trợ bằng các nguồn vốn có thủ tục đơn giản (như các dự án

tiết kiệm năng lượng quy mô nhỏ, dự án cải tiến quản lý, tổ chức, cải tiến sản

phẩm) để giảm chi phí giao dịch về vốn.

Thứ ba, thời hạn đầu tư và khả năng hoàn vốn. Thông thường, những dự

án có quy mô lớn, hoàn vốn chậm thường được hỗ trợ bằng các chương trình

ưu đãi trong và ngoài nước, hoặc cần được chia sẻ rủi ro giữa các nhà đầu tư.

Trong trường hợp đó, các doanh nghiệp nên tìm đến những nguồn vốn có yếu

tố ưu đãi như Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nguồn ODA, hoặc

một số chương trình ưu đãi khác liên quan đến đổi mới công nghệ, giảm thiểu ô

nhiễm môi trường...

Thứ tư, tình trạng vốn và kết quả tài chính của doanh nghiệp.

Thực tế, một số doanh nghiệp khó tiếp cận được các nguồn vốn do tỷ lệ

nợ quá cao, hoặc kết quả kinh doanh không ổn định, điều này làm cho các nhà

tài trợ ngần ngại về khả năng hoàn vốn của các dự án. Trong trường hợp đó, tài

trợ theo từng dự án có thể là một phương thức phù hợp nhằm tách những kết

quả và các khoản nợ của dự án khỏi những hoạt động thường ngày của doanh

nghiệp. Thực tế, trên thế giới rất nhiều công trình được tài trợ bằng cách này và

- 96 -



đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trong trường hợp đó, doanh nghiệp cần có được

những đánh giá tốt của các chuyên gia tài chính và nên có những hình thức bảo

hiểm hoặc bảo lãnh phù hợp.

3.2.2.2. Phát triển và hoàn thiện các tổ chức trung gian tài chính



Trước hết, cần nâng cao tác động của hệ thống các tổ chức tài chính

trong việc huy động và tạo kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp.

Hệ thống các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở nước ta

đã được cải cách đáng kể trong thời gian qua. Số lượng và tỷ trọng của các

ngân hàng không phải là quốc doanh trong số các ngân hàng thương mại đã

tăng lên đáng kể, trong khi các ngân hàng thương mại quốc doanh hầu như

không thay đổi về số lượng.

Mặc dù vậy, do những nguyên nhân khác nhau, nhiều ý kiến trong số các

doanh nghiệp được hỏi vẫn cho rằng trong tương lai nên phát triển các ngân

hàng thương mại quốc doanh.

Dù hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng ở Việt

nam đã đựơc cải tổ, hòan thiện và phát triển một cách tích cực trong những

năm gần đây, tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng chưa thực sự hiệu quả.

Chính vì vậy, để tăng cường vai trò là kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp, cần tạo

quan hệ tài chính lành mạnh và tích cực giữa các doanh nghiệp (người cần vay

vốn) với các tổ chức tín dụng (người cần cho vay vốn), trong đó đặc biệt quan

trọng là sự phối hợp hoạt động bằng nhiều hình thức, nhằm tạo cơ hội tăng

cường tác dụng của hệ thống tài chính chính thức và giám sát hiệu quả sử dụng

vốn của các doanh nghiệp, xóa bỏ nghịch lý “đóng băng vốn” và giảm rủi ro

cho các tổ chức tài chính, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp

trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính của đất nước.

Chính vì yêu cầu trên, các ngân hàng được tăng cường hòan thiện theo

hướng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp. Coi doanh nghiệp là khách hàng,

nghĩa là đối tượng cần được quan tâm của ngân hàng. Để làm được điều đó cần

chú ý một số vấn đề chính:

- 97 -



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

×