Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 114 trang )
Tuy nhiên, những thành tựu mới chỉ là bước đầu. Còn nhiều bất cập, ảnh
hưởng chưa tốt đến sự phát triển của loại hình dịch vụ này. Do vậy cần thiết phải
nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm phát triển hơn nữa dịch vụ thẩm định giá
Việt Nam.
CHƢƠNG 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
THẨM ĐỊNH Ở GIÁ VIỆT NAM
3.1 Bối cảnh mới và tác động của nó đến dịch vụ thẩm định giá Việt Nam
Hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế -xã
hội quan trọng. Kinh tế thị trường đã có những bước phát triển cơ bản và đạt
được trình độ nhất định. Trên thế giới, các nước như Trung Quốc, Nga, các nước
ASEAN… đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Đây là nhân tố
quan trọng thúc đẩy dịch vụ thẩm định giá phát triển.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng phát triển chung
thời đại ngày nay. Đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế thị trường ở Việt
Nam phát triển. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết quốc tế đòi hỏi nền kinh
tế và các doanh nghiệp Việt nam phải cạnh tranh quyết liệt. Đây chính là những
khó khăn lớn cho doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam trong thời gian tới do
còn khá non trẻ, kinh nghiệm và trình độ chênh lệch khá xa so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới. Theo Giáo sư David Dapice thì kết quả xếp hạng kinh
doanh của 14 nước Châu Á (Nam, Đông nam và Đông Á) cho thấy Việt nam xếp
thứ 12 đồng hạng nhưng sau Indônesia).
Chủ đề tại hội nghị Hội thẩm định giá ASEAN tháng 7 năm 2006 tại
Singapore được đặt là “thẩm định giá ở châu Á”, nhằm mục tiêu: thảo luận và
chia sẻ các kinh nghiệm, gợi ra các giải pháp tiếp tục phát triển nghề thẩm định
giá của các nước thành viên, góp phần làm cho thị trường giao dịch mua bán tài
sản công khai hơn, minh bạch hơn, thúc đẩy nền kinh tế của mỗi nước phát triển
trước những thách thức to lớn của qúa trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc
tế với mức độ ngày càng sâu hơn và phạm vi ngày càng rộng hơn; và chính bối
cảnh này đã đặt ra những thách thức cho nghề thẩm định giá phải giải quyết.
76
Rõ nét nhất là nhu cầu thẩm định gía ngày càng cao, mang tính xuyên
quốc gia trong việc yêu cầu các tổ chức thẩm định giá phải xác định đúng giá trị
tài sản theo nguyên tắc thị trường để phục vụ các mục đích ngày càng đa dạng là
mua, bán tài sản, tính thuế, đầu tư, thuê mướn, thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm...Từ
đó đòi hỏi các nước phải nghiên cứu để có những tương đồng về chuẩn mực
pháp lý, về phương pháp, tiêu chuẩn thẩm định giá, về hệ thống cơ sở dữ liệu
thông tin phục vụ thẩm định giá và năng lực đội ngũ thẩm định viên chuyên
nghiệp. Nhiều nước đã có những kinh nghiệm rất hay, có tính chon lọc trong qúa
trình đối mặt với những thách thức mới của hoạt động thẩm định giá. Đó cũng là
những nội dung mà Việt Nam cần phải nghiên cứu, học hỏi và vận dụng cho
nghề dịch vụ thẩm định giá của mình.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Việt Nam đã là hội viên thông tấn của Hiệp hội
thẩm định giá Quốc tế (IVSC). Với sự hỗ trợ của Bộ Tài chính Việt Nam, Hội
Thẩm định giá Việt Nam vừa được thành lập đang nộp đơn đăng ký là hội viên
chính thức của IVSC. Phía IVSC đã có thông báo cho Hội Thẩm định giá Việt
Nam hoàn tất thủ tục xin gia nhập hội viên để có thể kết nạp tại hội nghị thường
niên về thẩm định giá năm 2008... Rõ ràng thẩm định giá Việt Nam đang từng
bước hội nhập vào nền thẩm định giá của khu vực và thế giới.
Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Do tính chất đặc biệt của
dịch vụ thẩm định giá là một loại hình dịch vụ tư vấn, đòi hỏi kết quả thẩm định
giá cung cấp cho khách hàng phải có độ chính xác, tin cậy cao nên các yếu tố
như văn hoá công ty, trình độ chuyên môn và đạo đức kinh doanh của thẩm định
viên, công nghệ ứng dụng trong thẩm định giá... luôn được coi trọng và là bí
quyết để giữ khách hàng; mở rộng thị trường. Đặc trưng nổi bật của nghề thẩm
định giá là sự đòi hỏi cao về yếu tố con người, đó là năng lực và phẩm chất đối
với người thẩm định viên, là yêu cầu cao về chữ tín trong kinh doanh sẽ quyết
định vai trò của việc cung ứng nguồn nhân lực mới này trong nền kinh tế nước
ta.
Nhìn chung, bối cảnh mới của đất nước và thế giới trong những năm trước
mắt, mặc dù có không ít thách thức, sẽ là động lực phát triển nhanh, mạnh hoạt
động thẩm định giá trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
77
3.2. Những quan điểm chủ yếu trong việc phát triển dịch vụ thẩm định giá
Việt Nam
3.2.1. Phát triển dịch vụ thẩm định giá phải trên cơ sở các nguyên tắc của cơ
chế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế
Việt nam là thành viên của Hiệp hội thẩm định giá ASEAN và tham gia
vào Uỷ ban tiêu chuẩn thẩm định giá Quốc tế với tư cách là hội viên thông tấn.
Như vậy hoạt động thẩm định giá của nước ta phải theo thông lệ thẩm định giá
quốc tế. Nguyên tắc cao nhất mà các nước tham gia tổ chức thẩm định giá khu
vực và quốc tế là không được trái với hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế.
Là một thành viên của Hiệp hội, Việt Nam cũng phải thừa nhận những nguyên
tắc và khái niệm cũng như những tiêu chuẩn của Uỷ ban tiêu chuẩn thẩm định
giá Quốc tế đã ban hành như là một khuôn khổ hướng dẫn để xây dựng hệ thống,
tiêu chuẩn thẩm định giá của mình. Những tiêu chuẩn ấy phải phù hợp với điều
kiện phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung,
nghề thẩm định giá nói riêng và phải phù hợp với hệ thống luật pháp, trình độ,
kinh nghiệm, thực tiễn công tác thẩm định giá ở nước ta.
Nhu cầu về thẩm định giá của xã hội ngày càng cao, càng mang tính
xuyên quốc gia, điều này yêu cầu các tổ chức thẩm định giá phải xác định đúng
giá trị tài sản theo nguyên tắc thị trường để phục vụ các mục đích ngày càng đa
dạng cả về chiều sâu và chiều rộng là: mua bán tài sản, đầu tư, tính thuế, cho
thuê, bảo lãnh, bảo hiểm, ... từ đó đòi hỏi Việt Nam cũng như các nước phải
nghiên cứu để có những tương đồng về chuẩn mực pháp lý, về phương pháp, tiêu
chuẩn thẩm định giá, về hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ thẩm định giá
và năng lực của đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp
3.2.2. Xây dựng nghề thẩm định giá mang tính chuyên nghiệp cao
Thẩm định giá đang dần trở thành một nghề chuyên nghiệp, độc lập ở
nước ta. Tính chuyên nghiệp trong thẩm định giá thể hiện trước hết là ở các thẩm
định viên. Họ là người có đủ kỹ năng thực hành, có kiến thức, kinh nghiệm
chuyên môn thực hành trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Để thực hiện
78
những nhiệm vụ chuyên sâu đó đòi hỏi người thẩm định viên phải có những
kiến thức và kinh nghiệm từ những khoá đào tạo khắt khe, bao gồm cả thời gian
thực hành bắt buộc kèm theo. Các thẩm định viên phải thuộc một tổ chức nghề
nghiệp, một đơn vị có chức năng thẩm định gía nhất định và tuân thủ những quy
tắc đạo đức nghề nghiệp. Người thẩm định viên cũng thường xuyên phải cập
nhật, nâng cao kiến thức chuyên môn nhằm đáp ứng được những nhu cầu đa
dạng và liên tục thay đổi của khách hàng thẩm định giá.
Thẩm định giá là lĩnh vực mới đối với Việt nam. Vì vậy cần tuyên truyền
cao nhận thức của xã hội, công chúng đối với vai trò, vị trí, và đóng góp của
nghề định giá trong phát triển kinh tế. Đặc biệt cần nâng cao nhận thức về sự cần
thiết đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ thẩm định viên về giá chuyên nghiệp,
nhất là báo cáo thẩm định giá, chất lượng dịch vụ này đòi hỏi phải được tiêu
chuẩn hóa và do những cá nhân được đào tạo cơ bản, hệ thống, có kiến thức và
kỹ năng tiến hành.
Có thể thấy trong tương lai, Việt nam sẽ xuất hiện nhu cầu đào tạo kiến
thức, kỹ năng cho đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp, giống như nhu cầu đµo
tạo đối với các nghề chuyên môn khác như bác sỹ, luật sư, kế tóan, kỹ sư. Điều
này là toàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế vì trên thế giới hoạt động thẩm
định giá là một nghề riêng, chuyên nghiệp và đóng góp đáng kể vào phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Tính riêng biệt của nghề này thể hiện ở 6 nội
dung chuyên môn mà một thẩm định viên về giá tài sản bắt buộc phải qua đào
tạo là: kinh tế học về tài sản; thị trường vốn; các phương pháp thẩm định giá;
phân tích và viết báo cáo thẩm định giá; những kỹ thuật và phương pháp luận
thẩm định giá; toán tài chính trong thẩm định giá.
Bộ Tài chính cần nghiên cứu đến việc đào tạo đội ngũ trợ lý cho thẩm
định viên về giá. Những trợ lý này là người được đào tạo các môn cơ bản về
thẩm định giá, nhưng không nhất thiết (bắt buộc) phải qua (hoặc đỗ) các kỳ thi
lấy thẻ thẩm định viên. Nhiệm vụ thẩm định giá được phân công cần có sự trùng
hợp giữa đối tượng thẩm định (loại tài sản) với thẩm định viên chuyên về lĩnh
79
vực đó, điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo thẩm định. Vì vậy đối với
nội dung, chương trình bồi dưỡng cần tập trung cho các chuyên ngành này.
Cần xây dựng hệ thống tài liệu giáo trình giảng dạy, bồi dưỡng. Cần có chính
sách khuyến khích những thẩm định viên có nhiều kinh nghiệm, những cán bộ
quản lý, giảng viên các trường viết giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy nghề
thẩm định giá. Ngoài ra, những giáo trình thẩm định giá của các giảng viên, giáo
sư nước ngoài cần được dịch ra tiếng Việt làm tài liệu tham khảo.
3.2.3. Phát triển dịch vụ thẩm định giá phải dựa vào sức mạnh của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần
Đa dạng hoá hình thức sở hữu doanh nghiệp thẩm định giá nhằm đáp ứng
nhu cầu thẩm định giá ngày càng đa dạng và phức tạp của xã hội trong nền kinh
tế thị trường và hoạt động thẩm định giá phải thể hiện sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế .
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần với nhiều
hình thức tổ chức kinh tế là chủ trương phát triển kinh tế được Đảng và Nhà
nước ta khẳng định. Theo định hướng trên, cần thống nhất quan điểm trong lĩnh
vực hoạt động thẩm định giá, cần có sự tham gia của các thành phần kinh tế và
mọi thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực dịch vụ này đều có quyền bình
đẳng và nghĩa vụ như nhau.
3.3. Một số giải pháp phát triển dịch vụ thẩm định giá ở Việt Nam
3.3.1. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về thẩm định giá
- Việc xây dựng một hệ thống quản lý nhà nước về thẩm định giá thống
nhất từ Trung ương đến địa phương là rất cần thiết. Hệ thống quản lý phải chặt
chẽ và khoa học, vừa đảm bảo được vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa
phát huy tính năng động, sáng tạo có hiệu quả của các chủ thể tham gia lĩnh vực
thẩm định giá. Hệ thống quản lý nhà nước về thẩm định giá có thể bao gồm 2
thành phần: Quản lý trực tiếp nhà nước của Bộ Tài chính và quản lý thông qua
Hội thẩm định giá Việt Nam (hiện tại vai trò của Hội còn mờ nhạt). Trong đó,
80
Nhà nước (Bộ Tài chính) kiểm soát toàn bộ các hoạt động thẩm định giá; Hội
nghề nghiệp tập hợp, bồi dưỡng nâng cao tay nghề và đạo đức nghề nghiệp cho
hội viên, khuyến khích hội viên tuân thủ luật lệ, quy định hoạt động thẩm định
giá, nhằm phát triển hoạt động thẩm định giá đúng hướng và ổn định, đồng thời
giúp Nhà nước nắm bắt được tình hình thực tế để có chính sách quản lý sát thực.
- Bộ Tài chính có chức năng quản lý nhà nước về giá, trong đó có quản lý
nhà nước về thẩm định giá. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước ta, đồng thời phù hợp với xu thế chung của các nước
trên thế giới, cũng như trong khu vực.
- Hiện nay có rất nhiều tổ chức thẩm định giá hoạt động, tuy nhiên chưa có
công tác kiểm tra tư cách pháp nhân cũng như chất lượng của các tổ chức thẩm
định giá. Vẫn còn có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, thiếu công bằng
giữa các tổ chức thẩm định giá có đầy đủ điều kiện hành nghề theo quy đinh của
pháp luật và các tổ chức chưa đủ điều kiện vẫn được hành nghề. Vì vậy cần phải
có biện pháp quản lý và đưa hoạt động của các tổ chức này đi vào khuôn khổ
theo quy định của pháp luật, đó là:
- Việc quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức thẩm định giá đối với kết
quả thẩm định giá, gía trị thẩm định không đúng hoặc làm thiệt hại cho ngân
sách nhà nước, cho khách hàng thì tổ chức thẩm định giá và thẩm định viên về
giá phải chịu trách nhiệm, phải bồi thường...
Phải khẩn trương ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, đặc
biệt là các tiêu chuẩn về phương pháp thẩm định giá, về mục đích thẩm định giá,
về hợp đồng thẩm định giá...
- Cần thiết nâng cao năng lực quản lý nhà nước về thẩm định giá trong lĩnh
vực tổ chức thi và giấy phép hành nghề thẩm định giá và vai trò của Chính phủ
đối với hoạt động thẩm định giá để hoạt động thẩm định giá ngày càng có tình
chuyên nghiệp cao.
- Theo quy định của Pháp lệnh Giá và Nghị định số 101/ 2005/NĐ-CP của
Chính phủ về Thẩm định giá về Tiêu chuẩn thẩm định viên về giá đã quy định
về: Điều kiện hành nghề của thẩm định viên về giá; Người không được đăng ký
hành nghề thẩm định giá; Quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá; Những
81
hành vi bị cấm đối với thẩm định viên về giá. Như vậy căn cứ vào các quy định
của pháp luật, các tổ chức có chức năng cấp giấy phép hành nghề cần thiết phải
có sự kiểm tra, kiểm soát theo đúng quy định của nhà nước trong việc cấp thẻ
hành nghề và qúa trình sử dụng thẻ thẩm định giá cho các đối tượng.
- Cùng với việc kiểm soát hoạt động nghề nghiệp của thẩm định viên thông
qua thu hồi gíây phép hành nghề (thể thẩm định viên) của những người sai phạm,
cần có nhiều cách khác nữa để Chính phủ có thể đưa hoạt động này vào nề nếp
như tạm giữ giấy phép có thời hạn, phạt hành chính...
- Thẩm định giá là một loại hình nghề nghiệp mang cả tính nghệ thuật và
tính khoa học, do đó sẽ không thể tránh khỏi những tranh cãi, tranh chấp, khiếu
kiện xẩy ra từ những kết quả thẩm định giá do cán bộ, chuyên gia thẩm định giá
tiến hành.. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động thẩm định giá Việt Nam và
theo kinh nghiệm của các nước nên thành lập một cơ quan để tiếp nhận và xử lý
những bất đồng đó. Như thành lập phòng tái thẩm định giá để phân xử những
tranh chấp liên quan đến thẩm định giá để đánh thuế tài sản; hoặc thành lập
Phòng Kháng cáo để phân xử.
Nhà nước cần có định chế về phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thẩm
định giá tài sản.
Đó là việc nên hình thành Quỹ Bảo hiểm Bồi thường, quỹ bảo hiểm rủi
ro nghề nghiệp.
Nền kinh tế thị trường phát triển, sự rủi ro ngày càng trở thành một trong
những vấn đề được quan tâm và đồng hành cho bất cứ hoạt động nghề nhiệp tư
vấn nào. Những loại rủi ro này đã được bảo đảm bởi các dịch vụ bảo hiểm. Trên
thực tế, những loại rủi ro khác nhau kéo theo và có thể nhận thấy ở mọi nơi.
Trong hàng loạt những rủi ro chưa được công nhận, rủi ro nghề nghiệp là một
thách thức to lớn nhất. Ở các nước, số vụ kiện kinh tế các công ty kiểm toán và
các tổ chức thẩm định giá đã ngày càng tăng. Từ đó, có thể xem việc thẩm định
giá thực sự là một nghề có rủi ro nghề nghiệp. Vì vậy, giải pháp này nhằm góp
phần phòng ngừa và hạn chế rủi ro có thể xảy ra ở mức thấp nhất cho các Công
ty thẩm định giá cũng như các thẩm định viên trong thẩm định giá tài sản, để
82
dịch vụ tư vấn thẩm định giá không trở thành tác nhân của những cuộc khủng
hoảng tài chính hay tài sản.
Để có thể đề ra những giải pháp, trước tiên cần tìm hiểu những yếu tố tạo
ra rủi ro nghề nghiệp của dịch vụ thẩm định giá.
Giả thiết là tất cả các rủi ro xảy ra có thể dẫn đến làm sai lệch kết quả
thẩm định giá tính từ khách quan, tính công bằng và cơ sở khoa học gây tai tiếng
và tổn thất kinh tế cho các doanh nghiệp thẩm định giá. Bằng cách phân chia
theo đối tượng và chủ thể thẩm định giá, rủi ro thẩm định giá có thể chia làm các
loại như sau:
Những rủi ro từ doanh nghiệp được thẩm định giá (hoặc tổ chức, cá nhân
có tài sản được thẩm định giá). Loại rủi ro này có nguyên nhân từ doanh nghiệp
được thẩm định giá. Một cách khách quan hoặc chủ quan, họ đã gây trở ngại và
làm ảnh hưởng đến thẩm định viên trong việc chấp hành những thủ tục thẩm
định giá cần thiết, khi thẩm định giá tài sản.
Thẩm định giá là loại hình dịch vụ rất cần kinh nghiệm chuyên môn và
thực tiễn nghề nghiệp. Kinh nghiệm chuyên môn là những kinh nghiệm tích luỹ
được trong suốt quá trình hoạt động lâu dài của doanh nghiệp qua nhiều lần thẩm
định giá. Một doanh nghiệp thẩm định giá tốt, là doanh nghiệp biết phân tích và
sử dụng thông tin từ những lần thẩm định giá trước, cũng như biết huấn luyện
nhân viên nhằm tăng cường khả năng thẩm định giá nói chung và giảm thiểu các
ý kiến sai lệch.
Một khía cạnh khác cũng cần được quan tâm trong hoạt động thẩm định
giá là việc tổ chức và quản lý công việc thẩm định giá. Việc tổ chức và quản lý
thẩm định giá được thực hiện tốt hay không sẽ quyết định tiến trình và chất
lượng của kết quả thẩm định. Trên thực tế, trật tự trong việc tổ chức và quản lý
thẩm định giá không khoa học là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến những rủi ro nghề
nghiệp.
Ngoài ra, công việc thẩm định giá còn đòi hỏi phải có một hệ thống kiểm
soát chặt chẽ. Nếu không có những kiểm soát này, doanh nghiệp thẩm đinh giá
sẽ phải đối mặt với những rủi ro kỹ thuật.
83
Rủi ro con người: Là những rủi ro do những nguyên nhân liên quan đến
khả năng và đạo đức nghề nghiệp của thẩm định viên.
Do sự phức tạp và những đặc điểm nghề nghiệp riêng của công việc thẩm
định giá, đòi hỏi một thẩm định viên phải có “đức và tài”, nghĩa là họ không chỉ
đạt tiêu chuẩn nghề nghiệp mà còn phải có các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt
trong một số lĩnh vực nhất định (như xây dựng, máy móc thiết bị, kế toán, vi
tính, kinh tế,...) cũng như khả năng tổ chức tốt, sự nhiệt tình mà còn phải đảm
bảo đạo đức nghề nghiệp. Khả năng nghề nghiệp quyết định việc một cá nhân
đạt tiêu chuẩn hành nghề thẩm định giá và đạo đức nghề nghiệp thể hiện trách
nhiệm của họ đối với nghề nghiệp. Sự kém hiệu quả ở bất kỳ khả năng nào của
thẩm định viên cũng sẽ dẫn đến kết quả thẩm định giá kém chính xác, gây ra rủi
ro.
Những rủi ro liên quan: Là những rủi ro gây nên bởi những tổ chức liên
quan đến doanh nghiệp thẩm định giá, công ty được thẩm định giá và do ảnh
hưởng của môi trường bên ngoài.
Trên thực tế, quá trình chuyển hoá những rủi ro tiềm tàng thành những rủi
ro thực sự thường là quá trình xảy ra đồng thời nhiều loại rủi ro. Vì vậy, những
công cụ ngăn ngừa rủi ro phải được sử dụng đồng bộ để ngăn ngừa những rủi ro
từ công ty được thẩm định giá, giảm rủi ro thẩm định giá và hạn chế những rủi ro
liên quan. Những công cụ phòng ngừa rủi ro cũng giống như tấm lưới lọc nhiều
lớp có khả năng lọc những rủi ro thẩm định giá
Những rủi ro của khách hàng thẩm định giá và doanh nghiệp thẩm định
giá, có thể được khắc phục thông qua các công cụ phòng ngừa rủi ro đã nêu trên.
Riêng những rủi ro liên quan nằm ngoài tầm kiểm soát của họ, do đó không thể
ngăn chặn chỉ bằng nỗ lực của doanh nghiệp thẩm định giá. Trên thức tế, loại rủi
ro này đe doạ doanh nghiệp thẩm định giá, cá nhân thẩm định viên cũng như
toàn bộ thị trường dịch vụ thẩm định giá. Theo quan điểm của luận văn, những
biện pháp cơ bản phòng ngừa rủi ro loại này mà hoạt động thẩm định giá cần có
là :
Thứ nhất: Hoàn thiện hành lang pháp lý và các quy định về thẩm định giá.
84
Sự ra đời của Pháp lệnh giá đã đạt được sự tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, cùng với
sự tăng cường tái cấu trúc nền kinh tế và phát triển đa thành phần kinh tế, thì
việc nhanh chóng ban hành một số bộ luật cần thiết, hệ thống văn bản hướng dẫn
và những quy định đầy đủ là hết sức cần thiết cho dịch vụ thẩm định giá. Sự trì
trệ sẽ là một cản trở lớn cho việc phát triển hoạt động, làm cho các tổ chức và cá
nhân người thẩm định viên về giá phải đối mặt với những rủi ro lớn do thiếu
khung pháp lý đầy đủ để bảo vệ trong quá trình thẩm định giá của họ.
Thứ hai: Cần ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn cho dịch vụ thẩm định giá
Việt Nam
Việt Nam cần thiết phải có một số tiêu chuẩn riêng phù hợp với điều kiện
thực tế của mình. Việc chưa hình thành đầy đủ hệ thống tiêu chuẩn nghề nghiệp
không chỉ giới hạn sự phát triển mà còn mang đến nhiều rủi ro và nguy hiểm
tiềm tàng cho cả doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá.
Thứ ba: Khẳng định vị trí thị trường của dịch vụ thẩm định giá, đảm bảo
cạnh tranh lành mạnh.
Thứ tƣ: Bộ Tài chính cần xây dựng một cơ chế bảo vệ rủi ro cho doanh
nghiệp thẩm định giá, triển khai xây dựng quỹ bảo hiểm nghề nghiệp chung của
ngành đưới sự quản lý của Hội Thẩm định giá Việt Nam. Bên cạnh đó cần có
một Hội đồng trọng tài để giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trong việc đưa ra kết
quả thaamr định giá giữa các doanh nghiệp khác nhau và có chính sách chuẩn
mực hoá hay độc lập hoá ngành thẩm định giá với các ngành khác.
Dịch vụ thẩm định giá tồn tại dựa vào những nỗ lực của những nhà quản
lý điều hành vĩ mô nền kinh tế, của các tổ chức và cá nhân những người làm
thẩm định giá đã đóng góp những việc hữu ích cho xã hội. Quá trình phát triển
hoạt động thẩm định giá tất yếu sẽ nảy sinh sự cạnh tranh. Cạnh tranh ban đầu là
điều kiện tốt để khuyến khích phát triển, nhưng cũng khó tránh khỏi những hình
thức cạnh tranh không lành mạnh đã từng xảy ra ở các nước, chẳng hạn như
chiều theo khách hàng bằng cách hạ thấp giá cả, giảm chất lượng và hoạt động
kinh doanh không minh bạch, sử dụng những quan hệ không bình thường để hạ
đối thủ cạnh tranh .... Đây là những hình thức luôn gây ra những mối nguy hại
85
làm huỷ hoại hình ảnh và trực tiếp đe doạ sự tồn tại của thị trường dịch vụ này,
do đó rất cần được các cấp quản lý và toàn ngành quan tâm.
Tóm lại, để hạn chế rủi ro, các nhà quản lý và toàn ngành thẩm định giá
cần ủng hộ quan điểm thẩm định giá phải gắn liền với kỹ thuật, chất lượng, danh
tiếng và cạnh tranh công bằng nhằm thiết lập một vị trí thị trường đúng đắn cho
dịch vụ thẩm định giá.
Ngoài những biện pháp cơ bản trên, một số biện pháp khác cũng cần được
tính đến như thiết lập ngân hàng dữ liệu và công khai thông tin dưới nhiều hình
thức trên thị trường, tăng cường lâu dài cho hoạt động thẩm định giá bằng đầu tư
cho giáo dục đào tạo ...
3.3.2. Chuyển đổi các Trung tâm cung cấp dịch vụ thẩm định giá sang mô
hình doanh nghiệp
Do nhu cầu thẩm định giá ở nước ta ngày càng lớn, đặc biệt hiện nay khi
nước ta đã là thành viên của WTO thì nhu cầu thẩm định giá ngày càng tăng.
Việt nam cần đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi các mô hình Trung tâm thẩm định
giá sang mô hình doanh nghiệp thẩm định giá để phát huy đầy đủ tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của đơn vị và nâng cao tính độc lập khách quan của kết quả
thẩm định giá phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Theo thông lệ quốc tế, khách
hàng nước ngoài thường chọn các tổ chức thẩm định giá có tính chuyên nghiệp
và là một doanh nghiệp độc lập (không là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
trực thuộc một Bộ, ngành nào). Mặt khác không nên kéo dài tình trạng như hiện
nay: dịch vụ thẩm định giá vừa do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện vừa do
các Trung tâm thẩm định giá thuộc các Bộ ngành, các địa phương thẩm định.
Điều này sẽ dẫn đến việc các đơn vị tham gia thẩm định giá không bình đẳng với
nhau, không thúc đẩy, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động dịch vụ
thẩm định giá.
Theo thống kê của Cục Quản lý giá - Bộ Tài chính, tính đến thời điểm hết
năm 2006 cả nước ta có 37 trung tâm có chức năng thẩm định giá (trong đó có
hai trung tâm trực thuộc Bộ Tài chính, các trung tâm còn lại hầu hết thuộc Sở Tài
chính hoặc UBND các tỉnh) và khoảng hơn 50 doanh nghiệp có chức năng thẩm
định giá. Để việc chuyển đổi mô hình trung tâm thẩm định giá sang mô hình
86