1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Báo cáo khoa học >

Sự phân bố của Pieridae và Danaidae

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (31.78 MB, 91 trang )


Bảng 4. Sự phân bố theo sinh cảnh của các loài Pieridae và Danaidae

Sô loài trong các kiểu sinh cảnh

TT



Họ, Giống

RNS



RT



TCB



14



22



16



10



3



4



2



1



1



HỌ PIERIDAE



RTS



1



2



2



1



1



Delias Hũbner



2



Leptosia Hũbner



3



Taỉbotia Bemardi



4



Cepora Billberg



1



2



5



Parenronỉa Bingham



1



1



6



Prioneris Wallace



2



1



7



Hebomoia Híibner



1



1



1



8



ỉxias Hũbner



1



1



9



Appias Hủbner



2



5



3



2



10



Pieris Schrank



1



1



11



Dercas Doubleday



1



12



Catopsiỉia Hủbner



2



3



1



13



Eurema Hũbner



3



2



1



14



Gandaca Moore



1



1



15



9



8



1



2



8



HỌ DAN AID AE

15



Danaus Kluk



1



1



2



16



Parantica Moore



2



2



2



17



Tirumala Moore



1



2



1



18



ỉdeopsis Horsfield



1



2



2



i



19



Eưploea Fabricius



6



7



3



3



20



Radena Linnaeus



1

22



10



25



18



39,2



%



37

66,0



44,6



32,1



Thành phần loài thuộc 2 Họ Pieridae và Danaidae trong các kiểu sinh cảnh

khác nhau được trình bày ở Bảng 4. Kết quả cho thấy, rừng thứ sinh có số lượng

loài nhiều nhất (37 loài, bằng 66% tổng số loài thu được trong quá trình điều

tra), trảng cày bụi có số loài ít nhất (18 loài; 32,1%), số loài thu được trong 2

sinh cảnh rừng nguyên sinh và rừng trồng xấp xỉ nhau (22 loài và 25 loài, tương

đương với 39,2% và 44,6%). Trong tổng số 56 loài chúng tôi thu được, có 28 loài

(bằng 50%) có chung từ 2 kiểu sinh cảnh trở lên và 28 loài còn lại (50%) chỉ

phát hiện thấy ở một kiểu sinh cảnh.

Chúng tôi phát hiện được 5 loài (8,9%) chung cho cả 4 kiểu sinh cảnh, đó

là Cepora nadina Lucas, Hebomoia glaitcippe Linnaeus, Eurema hecabe

Linnaeus, ỉdeopsis simiỉis Moore và Euploea muỉciber Cramer. Có thể coi chúng

là những loài phân bố rộng sinh cảnh. Ngoài ra, còn có 8 loài (14,2%) đều chuns

cho 3 kiểu sinh cảnh, 15 loài (26,7%) chung cho 2 kiểu sinh cảnh.

Hai tám loài chỉ gặp ở một kiểu sinh cảnh, có thể xem là những loài phân

bố hẹp sinh cảnh (loài riêng). Chúng tôi nhận thấy, kiểu sinh cảnh rừng nguyên

sinh và rừng thứ sinh có số lượng loài riêng nhiều nhất, 13 loài và 12 loài (bảng

23,2% và 21,4%), kiểu sinh cảnh rừng trồng và trảng cây bụi có số lượng loài

riêng ít nhất (2 loài và 1 loài; 3,6% và 1,8%).



80%

60%

40 %

20 %



0%

RNS



RTS



RT



Hình 2. Tỷ lệ % sỏ loài thuộc hai Họ Pieriđae và Danaidae

trong các kiểu sinh cảnh



11



Như vậy, các kiểu sinh cảnh khác nhau có số lượng loài bướm thuộc 2 Họ

Pieridae và Danaidae khác nhau. Ngoại trừ rừng nguyên sinh, phải chăng có tính

quy luật là số lượng loài bướm trong các kiểu sinh cảnh thay đổi theo hướng tỉ lệ

nghịch với mức độ khai thác rừng và tỉ lệ thuận với mức độ phục hồi rừng (Hình

2). Điều này cũng trùng với nhận xét của một số tác giả như Spitzer (1993), Vũ

Văn Liên và Đặng Thị Đáp (2002).

Giải thích về hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng điều dễ

nhận thấy là các kiểu sinh cảnh có các khu hệ thực vật khác nhau. Mỗi một loài

sâu (ấu trùng) có một hay một số loài cây thức ăn khác nhau (Khuất Đăng Long

và Vũ Quang Côn, 2005), vì vậy các sinh cảnh khác nhau có số lượng loài bướm

khác nhau cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra, phần lớn các loài thuộc Họ Pieridae và

Danaidae là những loài ưa thoáng, vì vậy kiểu sinh cảnh rừng thứ sinh có thể có

điều kiện sinh thái phù hợp hơn cho sự tồn tại và phát triển của chúng.

2.2 Sự phân bô theo các dải độ cao

Độ cao là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự phân bố không những

với thực vật mà cả với các nhóm động vật khác. Bởi lẽ đai cao ảnh hưởng sâu sắc

đến đới khí hậu (Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc, 1975). Theo Vũ Tự Lập

(1976), ở miền Bắc nước ta dải độ cao <600m là đai khí hậu nhiệt đới ; 6001000m là đai trung gian chuyển tiếp từ nhiệt đới sang á nhiệt đới; >1000m là đai

á nhiệt đới.

Các mẫu bướm được sắp xếp theo 4 dải độ cao khác nhau. Kết quả phân

tích được trình bày ở Bảng 5 và Hình 3. Kết quả cho thấy, số loài thu được nhiều

nhất ở dải độ cao 601-i000m (34 loài, bằng 67% tổng số loài trong khu vực điều

tra), tiếp đến là ở dải độ cao 300-600m (31 loài hay 55,3%), đứng thứ 3 là ở dải

độ cao >1000m (24 loài, bằng 42,8%). ở dải độ cao <300m thu được số loài ít

nhất (14 loài; 25%). Như vậy, ở những vùng có địa hình thấp (<300m) và cao

(>1000m) có thành phần loài bướm Pieridae và Danaidae nghèo nàn hơn.

Chúng tôi cũng thống kê được có 5 loài (bằng 8,9%) phân bố ở cả 4 dải độ

cao, đó là Cepora nadina Lucas, Hebomoia glaucippe Linnaeus, Appias nero

Wallace, Tirumala septentrionis Butler và Euploea mulciber Cramer; có 7 loài

12



(12,5%) gặp ở 3 dải độ cao: Delias acaỉis Godart, Appias lyncida Boisduval,

Catopsilia scyỉla Linnaeus, Eurema blanda Boisduval, Eurema hecabe

Linnaeus, Ideopsis similis Moore và Eupỉoea radamanthus Fabricius. Có thể

xem những loài trên đây là những loài phân bố rộng theo các dải độ cao.

Ngoài ra, có 24 loài chỉ gặp ở một dải độ cao, đó là những loài phân bố

hẹp, có thể coi chúng là những loài đặc trưng (loài riêng). Trong đó 12 loài chỉ

gặp ở độ cao >1000m, 9 loài ở độ cao 601-1000m, 2 loài ở độ cao 301-600m.

Như vậy, ở các dải độ cao khác nhau có số lượng loài bướm Pieridae và

Danaidae cũng khác nhau. Trong giới hạn độ cao dưới lOOOm, khi độ cao tãns

lên thì số lượng loài bướm Pieridae và Danaidae cũng tăng (Hình 3). Tuy nhiên

số loài phân bố hẹp gặp nhiều nhất ở dải độ cao>1000m.



13



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

×