Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 100 trang )
26,85%, bình quân mỗi năm trên 1,2 vạn lao động có việc làm mới. Sau nhiều
năm phát triển, đến nay bộ mặt nông thôn và thành thị của Thái Nguyên đã có
những thay đổi rõ nét. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân
tộc trong tỉnh được cải thiện đáng kể. Năng lực sản xuất, kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội phát triển mạnh... Đó chính là tiền đề để Đảng bộ, nhân dân tỉnh
Thái Nguyên đưa ra mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới:
phấn đấu đến trước năm 2020, Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp. Đến
năm 2010 vượt các tiêu chí của đô thị loại II, tạo tiền đề vững chắc để đến
năm 2020 trở thành một đô thị loại I văn minh, hiện đại.
Ngày 6/11/1996, Quốc Hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 nước CHXHCN
Việt Nam đã quyết định thành lập tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở tách ra từ hai
tỉnh Bắc Thái và Cao Bằng.
Mặc dầu có sự thay đổi về địa lý hành chính nhưng từ khi tái lập tỉnh
đến nay, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn dần được ổn định, có
nhiều biến chuyển tích cực, tạo đà cho những bước phát triển tiếp theo. Từ
ngày đầu thành lập tỉnh, ngành sản xuất nông lâm nghiệp được Đảng bộ xác
định là quan trọng hàng đầu, là điểm xuất phát để Bắc Kạn vươn lên thoát
khỏi đói nghèo, tạo sự ổn định về đời sống, từng bước thực hiện CNH. HĐH.
Đó là sự xác định đúng đắn để kinh tế xã hội tỉnh nhà có bước phát triển như
hôm nay. Lâm nghiệp chuyển biến mạnh, toàn tỉnh đã trồng mới được 15
nghìn ha rừng, nâng độ che phủ từ 50,6% năm 2000 lên 53,8% năm 2005.
Công nghiệp cũng tăng trưởng rõ rệt. Bắc Kạn hiện có 42 điểm khoáng sản do
tỉnh trực tiếp quản lý và hàng chục điểm khai thác khác do Bộ TN&MT quản
lý. Trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh đạt
12,42%/năm. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội toàn tỉnh có những thay đổi
lớn. Sau 5 năm, đầu tư xã hội trên địa bàn đạt trên 2.000 tỉ đồng. Về tình hình
xã hội, trong 4 năm (1996 - 2000), Bắc Kạn đã dành 43,6% số vốn xây dựng
45
cơ bản tập trung đầu tư cho giao thông, điện lưới và bưu điện nhằm đáp ứng
tết hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống các dân tộc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc
Kạn còn có những yếu kém, khó khăn như công tác quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội còn chậm, lúng túng và chắp vá, cơ cấu sản xuất cây trồng vật nuôi
chậm, khai thác thế mạnh tiềm năng của địa phương chưa được nhiều... Đại
hội IX của tỉnh xác định, trong nhiệm kỳ 2005 – 2010, phải phấn đấu tạo
bước ngoặt về ổn định và cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc, với những
Mục tiêu cụ thể như: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 20%/năm. Phấn
đấu tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp,
đưa thu nhập bình quân đạt 9 triệu đồng/người/năm...
Hà Giang là tỉnh miền núi biên giới địa đầu của tổ quốc; là địa bàn
chiến lược có vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội, đối
ngoại và bảo vệ môi trường. Theo Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1 tháng 07
năm 2004 của Bộ Chính trị: "Hà Giang là một trong những tỉnh thuộc vùng
trung du, miền núi Bắc bộ đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước".
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của Hà Giang đã có bước tăng
trưởng và phát triển nhất định; kết cấu hạ tầng đã được đầu tư một cách cơ
bản, làm cơ sở, nền tảng phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trong 5 năm
(2001 - 2005), tốc độ tăng trưởng GDP của Hà Giang đạt 10,58%, cao hơn
tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1996 - 2000 là 0,28%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại dịch vụ, giảm tỷ nông
nghiệp. Về phát triển văn hoá - xã hội: Văn hoá - xã hội tỉnh Hà Giang phát
triển ổn định, đa dạng, phong phú, lành mạnh. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo,
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát thanh truyền hình, xây dựng đời sống văn
46
hoá có nhiều tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện, tỷ lệ hộ khá và giàu ngày càng tăng...
Tuy nhiên, Hà Giang vẫn là một tỉnh biên giới nghèo, có nhiều khó
khăn, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, còn chênh lệch lớn về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ so với các vùng trong cả nuớc,
lợi thế để thu hút đầu tư không có nhiều...Từ tình hình thực tiễn về kinh tế xã hội của địa phương, trước yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Đại hội
Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIV đã đồng tâm: "Đoàn kết - Đổi mới - Đột
phá - Phát triển". Trong đó đặt ra mục tiêu tổng quát của toàn Đảng bộ tỉnh
đến năm 2010: Quyết tâm vượt ra khỏi tình trạng một tỉnh đặc biệt khó khăn,
rút ngắn khoảng cách phát triển so với các tỉnh trong khu vực để sớm thoát
khỏi tình trạng tỉnh nghèo.
2.3 Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển kinh tế xã hội miền núi đƣợc phản ánh trên trang báo trực tuyến địa phƣơng.
Trải qua những bước thăng trầm lịch sử - Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị
lãnh tụ vĩ đại của chúng ta cũng chỉ có một ước nguyện cao cả, đó là "Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành" [24,155].
Lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
làm nền tảng lý luận, Đảng và Nhà nước ta đã soi rọi vào thực tiễn hành động
của mình. Trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, gắn liền với dân tộc tự quyết
là việc đấu tranh thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trong sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, Bác Hồ cũng nói "Đồng bào các dân
tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà" [6,
7]. Kế tục những chân lý quý báu đó, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề
47
dân tộc ở vị trí chiến lược, có tầm quan trọng sống còn đối với quốc gia, và là
một nội dung lớn của cách mạng Việt Nam.
Đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc được thể hiện rất rõ trong 3
nguyên tắc có tính xuyên suốt như sau: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn
kết tương trợ, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn
minh, tiến bộ, gắn bó với các dân tộc Việt Nam; tôn trọng lợi ích, truyền
thống văn hoá, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của các dân tộc; các chính sách
phát triển kinh tế xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân
tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
Những quan điểm này đã được thể chế hoá bằng luật pháp. Hiến pháp
năm 1946, năm 1980 và đặc biệt là Hiến pháp năm 1992. Vấn đề dân tộc
được thể chế hoá bằng luật pháp và có tầm quan trọng sống còn với quốc gia.
Cũng nhờ có đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước mà các dân
tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị phân biệt đối xử, trở thành chủ nhân của
đất nước, gắn bó bền chặt cùng đấu tranh, lao động bảo vệ tổ quốc. Đến thời
kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của Đảng ta cũng được cụ thể hơn, phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội của từng vùng dân tộc thiểu số, vì để đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội khu vực vùng cao, vùng các dân tộc ít
người cần tập trung khai thác mọi nguồn lực trên cơ sở tiềm năng đất đai, tài
nguyên, lao động và mọi nguồn vốn để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, từng
bước nâng cao mức sống người dân, kết hợp hài hoà giữa mục tiêu tăng
trưởng kinh tế xã hội... Trên cơ sở đúng đắn về lý luận của chính sách dân tộc,
Đảng, Nhà nứơc ta lấy đó làm nền tảng để xây dựng đường lối nhằm phát
triển kinh tế xã hội miền núi. Các chủ trương, dự án lớn, các chương trình
mục tiêu Quốc gia, chính sách hỗ trợ ưu tiên...không chỉ là nguồn lực cho sự
phát triển mà còn là cơ sở để củng cố lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu
48