Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 100 trang )
những đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân
tộc trong tỉnh. Là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ, các tờ báo trực tuyến đã
chuyển tải nhanh chóng những chủ trương, đường lối chính sách về kinh tế xã hội của tỉnh đến với bạn bè trong nước và quốc tế một cách rộng rãi, góp
phần đưa hình ảnh, nét đẹp văn hoá các tộc người đến với đông đảo bạn
đọc...Đồng thời, những chuyển biến về kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương đều
được tờ báo trực tuyến đề cập, phản ánh. Đó chính là những nhiệm vụ, kế
hoạch trước mắt và cấp bách như:"Bắc Kạn - tiềm năng và triển vọng hợp tác
đầu tư" (BKTT, 20/3/2006); "Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế tư
nhân" (BKTT,1/8/2006); "Phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở Bắc
Kạn" (BKTT, 9/11/2007); "Hà Giang phát huy nội lực, đẩy nhanh nhịp độ
phát triển kinh tế - xã hội" (HGĐT, 30/7/2006); "Đẩy mạnh phát triển công
nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất" (TNTT, 15/10/2007)...
Đối với đồng bào miền núi, khó khăn về vật chất còn là nỗi ám ảnh
triền miên. Làm sao để đồng bào có đủ "Cơm ăn, áo mặc", mới là điều quan
trọng. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) vì người nghèo, từng bước ổn
định cuộc sống bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và trở thành chương trình
rộng khắp ở Bắc Kạn, Hà Giang (tỉ lệ hộ nghèo ở hai tỉnh này còn cao, chiếm
trên 50%) Bởi vậy, mục tiêu XĐGN là nhiệm vụ của toàn tỉnh. Đề cập đến
vấn đề chăm lo cho đồng bào vùng sâu vùng xa, tác giả Liêu Bảy đã có tin
"Xoá thêm 23 nhà tạm cho hộ nghèo không thuộc đối tượng được hưởng
chính sách" (BKTT, 26/12/2005). Các cấp, các ngành cùng chung tay, góp
sức để từng bước xoá được đói, giảm được nghèo cho các hội viên của mình.
Bài "Vai trò của Hội nông dân các cấp trong công tác xoá đói giảm nghèo"
(BKĐT, 16/10/2006) cho thấy vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của Hội nông dân
các cấp trong công tác XĐGN cho hội viên của mình là rất quan trọng. Cùng
với Hội nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên tìm mọi giải pháp giúp hội
55
viên, đoàn viên của mình phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu một cách chính
đáng. Đó là "Đẩy mạnh chương trình giúp phụ nữ nghèo ở Pác Nặm phát
triển kinh tế" (BKĐT, 18/10/2006); "Điểm tựa cho phụ nữ vùng cao Hà
Giang vươn lên" (HGĐT, 19/10/2007); "Bạch Thông: Hiệu quả từ nguồn vốn
cho thanh niên vay phát triển kinh tế" (BKĐT, 17/10/2006)...
Với lợi thế về diện tích đất đồi rộng, nguồn thức ăn xanh tự nhiên và
sản phẩm phụ của sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi đại gia súc là
một trong những đề án lớn đang được hai tỉnh Bắc Kạn và Hà Giang thực
hiện. Tính đến thời điểm này, đề án phát triển chăn nuôi trâu, bò giai đoạn
2006 - 2010 của tỉnh Bắc Kạn đang được nhân dân ủng hộ và đã hình thành
các chợ buôn bán gia súc. Bài "Ghi ở chợ bò Nghiên Loan" (BKĐT,
24/1/2007) là một trong những ví dụ minh chứng. Bài báo đã khẳng định lại
chủ trương đúng đắn của tỉnh Bắc Kạn về phát triển chăn nuôi đại gia súc
"...Đối với một tỉnh nghèo như Bắc Kạn thì trồng trọt và chăn nuôi được xác
định là ngành kinh tế chủ lực. Trong đó, phát triển chăn nuôi đại gia súc
không những giúp các hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát đói giảm nghèo mà
còn có thể vươn lên làm giàu". Với huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang đến thời
điểm này đã "Thực hiện tốt chương trình trồng cỏ, phát triển chăn nuôi"
(HGĐT, 2/11/2007), tác giả bài báo cũng khẳng định hiệu quả của chủ trương,
chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh nói chung và Xín
Mần nói riêng, đang được đông đảo bà con nhiệt tình hưởng ứng "Việc thực
hiện tốt chương trình trồng cỏ, phát triển chăn nuôi và cho vay hộ nghèo
không những góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện xuống 6,5-8%/năm,
đồng thời nâng tỷ lệ hộ khá, giàu lên đáng kể".
Nếu ở Bắc Kạn, Hà Giang đang khởi động những đề án lớn về nông
nghiệp nhằm tận dụng lợi thế về đồi cỏ, nguồn thức ăn dồi dào cho gia súc...
thì tại thành phố Thái Nguyên, việc tuyên truyền về những dự án lớn về sản
56
xuất công nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Thái Nguyên
Trực tuyến, đó là "Công ty Gang thép Thái Nguyên: Dự án đầu tư mở rộng
giai đoạn 2 đánh dấu bước phát triển nâng cao năng lực sản xuất".(TNTT,
26/9/2007). Tiếp tục khẳng định những thành công trong ngành công nghiệp,
tác giả Ngọc Sơn đưa tin "Nhà máy cán thép Lưu Xá: Giá trị tổng sản lượng
vượt 17% kế hoạch" (TNTT, 18/12/2007)...
Tiếp sau chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn miền núi vùng sâu vùng xa, trong những năm trở lại đây, đồng bào
miền núi còn cảm thấy Đảng, Nhà nước trở nên gần gũi hơn nhờ chương trình
134 về hỗ trợ cho hộ đồng dân tộc thiểu số khó khăn. Chương trình 134
không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng mà còn chứa đựng tính
nhân dân sâu sắc, phát huy được bản sắc tốt đẹp của dân tộc "Lá lành đùm lá
rách", góp phần đưa đời sống của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát khỏi
khó khăn. Vậy thực tế, chương trình được áp dụng ở địa phương ra sao: " Sau
hơn một năm thực hiện Chương trình 134 (CT 134) hỗ trợ cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số khó khăn, Bắc Kạn đã có trên 3000 hộ (55,2%) thoát cảnh
nhà tạm bợ tre nứa dột nát; hơn 2000 hộ (17%) được dùng nước sạch; hỗ trợ
48,6 ha (36,7%) đất sản xuất cho 678 hộ." ( BKTT, 8/6/2006) Còn ở Hà
Giang, chương trình 134 được đánh giá là "Chương trình của sức mạnh từ
cộng đồng" (HGTT, 17/4/2007). Ngoài ra các bài: "Chương trình 134 tại Ba
Bể: Niềm vui đến với hộ nghèo" (BKTT, 22/6/2006); "Nhờ 134, người dân có
nhà mới, có bể nước lại biết thêm nghề xây" (HGTT, 26/12/2007); "Đề nghị
chính sách hỗ trợ già làng, trưởng bản tham gia Chương trình 134" (TNTT,
14/12/2007)...Đều là những tin, bài phản ánh thông tin về thành tựu đạt được
đối với chương trình 134. Sở dĩ chương trình này mang nhiều hiệu quả thiết
thực cho các hộ nghèo dân tộc thiểu số là do sự đầu tư đúng chỗ và hợp lý,
hơn nữa đây là chương trình "Do dân và vì dân" nhất là đối với những hộ dân
57
nghèo, nên xã và nhân dân được cùng tham gia, giám sát, thực hiện. Thông
qua một kênh thông tin "Giám sát","Tuyên truyền" nữa là báo trực tuyến nên
càng tăng động lực, thúc đẩy thành công cho chương trình.
Khi bàn về báo chí kiểu mới, Lênin cũng cho rằng nên thường xuyên
"Dùng những tấm gương cụ thể, sinh động lấy trong mọi lĩnh vực để giáo dục
quần chúng". Thực tiễn cách mạng và hoạt động báo chí ở nước ta và nhiều
nước khác đã chứng tỏ tác dụng tích cực của mảng báo chí cách mạng khi viết
về điển hình. Cùng với tờ báo in, những gương điển hình tiên tiến trong việc
thực hiện các chính sách dân tộc và miền núi ở địa phương xuất hiện ngày
một nhiều trên các trang báo trực tuyến ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Một số
bài như: "Bắc Kạn: giàu lên từ con nhím" (BKTT, 21/4/2007); "Ông trưởng
thôn Lũng Tao làm kinh tế giỏi" (HGTT, 20/2/2007); "Gia đình ông Phàn
Giào Châu làm kinh tế giỏi", "Tẩn Phù Phúc làm giàu trên quê đá" (HGTT,
28/5/2007)....đều mang nội dung thông tin thiết thực, phản ánh kịp thời những
thành tựu mà một số gia đình miền núi đã làm được. Bài phản ánh: "Sư phụ
của nghề ươm, chiết, trồng cây ăn quả" (TNTT, 27/8/2007) đã khẳng định:
"Đó là ông Vũ Ngọc Nhân, xóm Đá Gân, xã Đồng Liên (Phú Bình). Mỗi năm
ông bán ra thị trường trong và ngoài tỉnh khoảng 1 vạn cây giống các loại,
riêng táo là 5.000 cây. Từ nguồn này, mỗi năm cho thu nhập khoảng 30 triệu
đồng". Đó là những con người bình dị, nhưng luôn sống hết mình cho sự
nghiệp phát triển miền núi, vươn lên làm giàu từ chính mảnh đất mà bao đời
nay họ đã sống và gắn bó cùng cái đói, cái nghèo. Báo chí lại càng không thể
quên họ, những con người, những điển hình tiên tiến, những người lao động
thật thà, chất phác nhưng cũng rất dũng cảm và đáng biểu dương khi họ thoát
đói nghèo vì sự tiến bộ của miền núi và các dân tộc.
58
Thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội,
những năm qua đi đôi với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đời sống mọi
mặt của nhân dân các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, của người dân các
tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang nói riêng, bước đầu đã được cải thiện
nâng cao một cách toàn diện. Đói nghèo từng bước được thu hẹp, người già,
trẻ nhỏ, người có bệnh, và người neo đơn có hoàn cảnh khó khăn được chăm
sóc. Nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn luôn đề cao và phát huy nghĩa cử
nhân đạo “Lá lành đùm lá rách” giúp nhau vượt qua các cơn hoạn nạn…Hệ
thống giáo dục được mở rộng bảo đảm cho tất cả mọi người đều được học tập
nâng cao và mở mang trí tuệ…Đời sống văn hoá, tinh thần phát triển không
ngừng đem lại cho người dân nhiều giá trị mới…
Những thành tựu về đời sống xã hội của nhân dân các dân tộc miền núi
đã được các tờ báo trực tuyến của các tỉnh thông tin một cách khá toàn diện
và chính xác. Đó là: "Ngành y tế Bắc Kạn với sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ
nhân dân " (BKTT, 21/12/2006), "Chợ Mới: Điển hình trong phong trào
không sinh con thứ ba" (BKTT, 20/7/2006); "Điện về bản vùng cao" (HGTT,
26/11/2007), "Biểu dương già làng, trưởng bản người dân tộc thiểu số, người
công giáo tiêu biểu" (TNTT, 6/11/2007), "Huyện Xín Mần đạt chuẩn quốc gia
về Phổ cập Giáo dục THCS" (HGTT, 22/11/2007)...
Với Bắc Kạn, một tỉnh miền núi còn khó khăn thì việc hưởng thụ
những thành quả của xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân vẫn
còn nhiều hạn chế. Tỉnh Bắc Kạn có số dân 300.000 người, trong khi đó số
người đến khám chữa bệnh một năm chỉ có trên 12.000 người (trên 3%). Lí
do người dân đến các dịch vụ y tế khám bệnh thấp là vì đường sá xa xôi,
người dân thì ít tiền, cơ sở vật chất kỹ thuật cho khám, chữa bệnh ở bệnh viện
tỉnh cũng còn khó khăn. Khắc phục điều đó đội ngũ các cán bộ y tế các cấp,
các ngành trong toàn tỉnh đang từng bước vượt khó đi lên, nâng cao dần chất
59
lượng khám chữa bệnh nhân dân. Phản ánh nỗ lực này, tác giả Hải Đăng có
bài viết ""Ngành y tế Bắc Kạn với sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân "
(BKTT, 21/12/2006). Tại 8 huyện, thị trong tỉnh, công tác chăm sóc sức khoẻ
nhân dân từng bước được nâng cao. Bài "Ghi nhận công tác chăm sóc sức
khoẻ nhân dân ở huyện Chợ Mới" (BKTT, 28/8/2007) đã phản ánh khá rõ nét
điều này. Với những điều kiện thuận lợi như: "Trung tâm Y tế huyện Chợ Mới
có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn hầu hết các trung tâm Y tế huyện khác
trong tỉnh. Hiện trung tâm có 6 khoa, với hơn 30 y, bác sĩ, 50 giường bệnh và
các loại máy móc được Bộ Y tế và Bệnh viện 108 hỗ trợ..." Nhờ đó "mạng
lưới cộng tác viên y tế thôn bản đã phát tốt vai trò của mình, vận động nhân
dân thường xuyên bảo đảm vệ sinh môi trường, ăn chín uống sôi, ngủ màn, tổ
chức tiêm vắc xin phòng bệnh cho 16/16 xã, thị trấn ..." .
Thái Nguyên - thành phố núi, đang chuyển mình đi theo con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
lần thứ XVI đã khẳng định, tỉnh Thái Nguyên đang "Phát huy cao độ mọi
nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong sự nghiệp đổi mới và phát triển"12. Cùng với mục tiêu tăng trưởng
nhanh về kinh tế "...công tác xã hội được quan tâm đầu tư, từng bước phù
hợp với phát triển kinh tế"13 của tỉnh nhà. Đặc biệt trong những năm qua, công
tác giáo dục, đào tạo của Thái Nguyên đã và đang phát triển nhanh mạnh cả
về loại hình và quy mô, nâng cao dần chất lượng. Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra mục
tiêu: "Đổi mới, phát triển giáo dục đào tạo". Để góp phần đưa Nghị quyết của
Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống, Thái Nguyên Trực tuyến đã có nhiều bài viết
phản ánh về thành tựu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo tỉnh nhà. Bài "Từ
phong trào diệt giặc dốt đến sự học hôm nay" (TNTT, 22/8/2007) của tác giả
2, 13
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII, tháng 1/2006
60
Thuý Hằng, đã khẳng định sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà là "Quốc sách"
đóng góp vào sự nghiệp nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho tỉnh và đất
nước. Việc xây dựng “Cả nước trở thành một xã hội học tập” đã trở thành
khẩu hiệu chiến lược trong tình hình mới, tỉnh Thái Nguyên chỉ đạo ngành
GD-ĐT đẩy mạnh việc phổ cập giáo dục tiểu học, xoá mù chữ. Đến nay
"...sau nhiều năm triển khai, năm 2002, tỉnh Thái Nguyên đã được Bộ GD-ĐT
công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Thái Nguyên
là tỉnh thứ 21 trong toàn quốc đạt chuẩn”. Nhiệm vụ mới của ngành Giáo dục
- đào tạo Thái Nguyên trong năm học 2007 - 2008 này là, kết thúc năm học,
mỗi huyện xây dựng 2 - 3 trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, trong đó 2
trường ở mức độ 1 và 1 trường ở mức độ 2, qua tin "Mỗi huyện phấn đấu xây
dựng 2 - 3 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia" (TNTT, 23/8/2007).
Mặc dù là một trong những tỉnh miền núi, biên giới khó khăn, xuất phát
điểm thấp, điều kiện tự nhiên kém thuận lợi...nhưng trong những năm qua,
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang luôn nỗ lực cải
thiện đời sống kinh tế, xã hội. Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh Hà Giang, lần thứ XIV đã khẳng định "Lao động xã hội việc làm và xoá
đói giảm nghèo có nhiều tiến bộ, gắn kết tốt hơn giữa phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội"14. Phát huy tinh thần "Tương thần tương ái",
trong những năm qua, những đối tượng thuộc hộ nghèo và gia đình chính sách
đã được các cấp, ngành và toàn xã hội chăm lo. Phản ánh công tác này, Hà
Giang Trực tuyến có những bài: "Tặng chăn ấm cho nhân dân xã Sơn Vĩ"
(HGTT, 31/12/2007); "Tiếp tục quan tâm, chăm sóc thương, bệnh binh, gia
đình liệt sỹ, người có công" (HGTT, 25/7/2007); "Đồn biên phòng Săm Pun
giúp dân xoá đói giảm nghèo" (HGTT, 24/9/2007)...Bài "Phát huy truyền
thống uống nước nhớ nguồn" (HGTT, 18/7/2007) đã cho bạn đọc thấy một cái
14
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang, lần thứ XIV
61
nhìn toàn diện về công tác chăm sóc các thương binh, gia đình liệt sỹ, gia
đình chính sách của tỉnh Hà Giang. "Trong gần 10 năm (1999 - 2007) tỉnh Hà
Giang đã mua hơn 1.000 cuốn sổ tiết kiệm để tặng cho các gia đình chính
sách với tổng số tiền là 181 triệu đồng, xây mới và tu sửa đuợc trên 500 ngôi
nhà tình nghĩa và các vật dụng sinh hoạt khác với tổng kinh phí trên 1 tỷ
đồng...". Hà Giang - tỉnh biên giới nơi có rất nhiều đơn vị bộ đội, chiến sỹ
biên phòng đang ngày đêm canh giữ mảnh đất địa đầu của tổ quốc. Họ không
chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững từng tấc đất, khoảng trời thiêng
liêng của Tổ quốc, mà còn hàng ngày, hàng giờ góp sức mình xây dựng Hà
Giang phát triển toàn diện. Trong những năm qua, cán bộ chiến sỹ đồn biên
phòng 219 đã và đang phát huy tinh thần "Quân với dân cùng làm việc
nghĩa". (HGTT, 3/12/2007). Hay bài "Đồn biên phòng Săm Pun giúp dân xoá
đói giảm nghèo" (HGTT, 24/9/2007) Với tinh thần "Đồn là nhà, biên giới là
quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”. Ban ngày bộ đội xuống
ruộng cấy lúa, lên nương trồng ngô, làm mẫu hướng dẫn bà con, giúp đồng
bào lồng ghép xây dựng các mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình. Buổi tối,
những người lính mang quân hàm xanh lại vượt qua bao con đường mòn để
vận động con em đồng bào đến trường, bám lớp. Đêm đêm, tiếng chân tuần
tra của các anh lặng lẽ in dài trên mỗi đường biên, mốc giới để giữ yên giấc
ngủ cho nhân dân và sự thanh bình cho vùng biên cương...
Tóm lại, điểm qua các bài báo thuộc về mục tiêu nhằm phát triển kinh
tế - xã hội, ổn định đời sống đồng bào chúng ta có thể thấy rằng, thông tin
phản ánh nội dung kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi khá đa dạng và phong
phú. Nội dung thông tin vừa có tác dụng tuyên truyền, vừa có tác dụng giới
thiệu quảng bá rộng rãi tới đông đảo bạn đọc trong nước và quốc tế về thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên trên mặt báo còn
xuất hiện nhiều tin bài có chất lượng thấp, tốc độ đưa tin bài rất chậm...
62
Thông tin mà tin bài báo trực tuyến đem đến cho bạn đọc, phải là
những thông tin đắt giá, có ý nghĩa đối với người đọc và có ý nghĩa xã hội.
Trên mặt báo trực tuyến Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Kạn dễ nhận thấy có
rất nhiều những thông tin không cần thiết. Chẳng hạn tin "Hội cựu chiến
binh xã Nguyên Phúc giúp nhau phát triển kinh tế" (BKTT, 1/10/2007), tác
giả đưa thông tin chưa tiêu biểu. Có thể thấy ở đây Hội cựu chiến binh ở đâu
mà không phải giúp nhau phát triển kinh tế. Hơn thế, Hội cựu chiến binh xã
Nguyên Phúc không phải là một tổ chức điển hình tiên tiến, vì vậy không cần
thiết phải đưa tin. Hoặc bài "Công ty Gang thép Thái Nguyên: Tập trung thực
hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh" (TNTT, 27/11/2007) cũng không có gì
mới. Tin này có thể không cần đưa vì nguyên tắc công ty nào cũng phải tập
trung thực hiện nhiệm vụ chính là sản xuất kinh doanh. Tin "Hội nông dân
tỉnh: Tỷ lệ hội viên chiếm 84,24%" (HGTT, 11/5/2007) có nội dung thông tin
sáo rỗng, không rõ ràng với những chi tiết đề cập trong tin không có gì mới
"Từ đầu năm đến nay, các cấp Hội nông dân đã kết nạp được 597 hộ viên
mới, nâng tổng số hội viên lên 40.000 hội viên, đưa tỷ lệ hội viên hội Nông
dân lên tới 84,24%...".
Một trong những đặc thù rất cơ bản của báo trực tuyến là tốc độ cập
nhật. Báo trực tuyến xác định tính phi định kỳ của nó và tốc độ làm cho độc
giả bị cuốn hút vào trang báo15. Tính thời sự của sự kiện, thông tin đến tay
người đọc còn nóng nguyên luôn là tiêu chí, là sự phấn đấu ráo riết của các tờ
báo trực tuyến lớn. Tuy nhiên, so với thời điểm xảy ra sự kiện, tốc độ đưa tin
của 3 tờ báo Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang trực tuyến là quá chậm.
Trong tin "Tưng bừng hội xuân Ba Bể" (BKTT, 14/2/2007) cập nhật ngày
14/2/2006, sự kiện của tin diễn ra ngày 10/2 mà mãi đến ngày 14/2/2007 mới
được cập nhật trên trang báo. Hay tin "Kiểm tra tình hình khắc phục hậu quả
15
Xin xem thêm Đặc điểm của báo trực tuyến, trang 22
63
mưa lũ ở Bạch Thông" (BKTT, 18/8/2006), đưa tin các đồng chí lãnh đạo tỉnh
đi kiểm tra, chỉ đạo công tác khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra vào ngày
16/8/2006, nhưng tới ngày 18/8/2006 (tức là 2 ngày sau đó) thông tin này mới
được cập nhật trên mạng. Tin "Hội thi văn hoá doanh nghiệp điện lực tỉnh lần
thứ I" (HGTT, 01/10/2007) diễn ra trong hai ngày 27, 28/9/2007. vậy mà
phóng viên đưa tin phải đợi tới tận khi hội thi kết thúc mới bắt đầu đưa cả tin
lễ khai mạc lẫn lễ bế mạc hội thi. Hay tin "Khai trương chi nhánh Ngân hàng
Thương mại cổ phần Quốc tế tại Thái Nguyên" (TNTT, 17/10/2007) cũng
vậy. Một ngày sau khi sự kiện diễn ra, thông tin mới được cập nhật trên mạng.
Việc sử dụng những đại từ chỉ tính nóng của sự kiện như: Sáng nay, Vào lúc
này, 20 phút trước đây...hầu như không được tận dụng. Ngược lại những
trạng từ chỉ thời gian phản lại như: Thời gian qua, 6 tháng đầu năm, vừa
qua...thường được các báo này dùng một cách rất thông dụng. Các tin "Cảnh
báo thiếu nước phục vụ sản xuất vụ Đông - Xuân" (TNTT, 13/11/2007),
"Huyện Đồng Văn tổ chức cuộc thi "Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" (HGTT, 01/10/2007)...đều mắc những lỗi trên.
Chức năng của báo trực tuyến địa phương là "...phương tiện hướng dẫn
dư luận và chỉ đạo công tác của Đảng bộ và chính quyền địa phương...là diễn
đàn của nhân dân, phản ánh nguyện vọng, ý kiến của nhân dân về tất cả các
lĩnh vực của đời sống, xã hội trong địa phương...", nên việc tuyên truyền về
những vấn đề trọng tâm của địa phương là rất quan trọng. Tuy nhiên, cùng với
xu hướng cắt, dán của các tờ báo trực tuyến hiện nay16., 3 tờ báo trực tuyến
Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang cũng không tránh khỏi việc copy tin bài
của các báo khác, dẫn tới tỉ lệ tin bài tự sản xuất ít hơn tỉ lệ tin bài khai
tháclại rất nhiều. Trên 50% tin bài của Thái Nguyên Trực tuyến, Bắc Kạn
Trực tuyến, Hà Giang Trực tuyến khai thác lại của báo khác. Theo khảo sát tại
16
Xin xem thêm Xu hướng phát triển mới nhất của báo trực tuyến, trang 24
64
chuyên mục Kinh tế, Xã hội, số lượng tin bài khai thác lại từ Thái Nguyên
Trực tuyến là 70%, Bắc Kạn Trực tuyến 90%, Hà Giang Trực tuyến 50%.
Theo thứ tự, bài viết từ "Nhân dân" được đăng lại nhiều nhất, sau đó là các
nguồn "TT0", "Vnexpress"...Như vậy có thể thấy, việc dẫn nguồn từ tờ báo
Đảng luôn là sự lựa chọn an toàn cho việc đưa lại thông tin của 3 tờ báo địa
phương này, tiếp sau đó là những tờ báo trực tuyến có uy tín hàng đầu tại Việt
Nam cũng là những nguồn trích dẫn tin đáng tin cậy.
Với xu hướng các tờ báo trực tuyến hàng đầu ở Việt Nam hiện nay
đang liên minh lại để bảo vệ bản quyền tác phẩm báo chí, hoặc có sự cam kết
không sử dụng tin bài của nhau nếu không thoả thuận trước, thì việc sử dụng
tin bài của các tờ báo khác để đăng lại trên 3 tờ báo trực tuyến Thái Nguyên,
Bắc Kạn, Hà Giang nhằm làm phong phú nội dung tin bài, không phải là giải
pháp lâu dài. Xu hướng tự sản xuất tin bài hoặc tham gia vào các liên minh để
sử dụng tin tức là điều mà 3 tờ báo trực tuyến địa phương này phải tính đến.
3.2 Hình thức thể hiện đề tài phát triển kinh tế - xã hội trên báo trực
tuyến ba tỉnh miền núi phía Bắc
3.2.1 Các thể loại báo chí thƣờng dùng
Để đáp ứng yêu cầu thời sự của báo trực tuyến, thể loại báo chí được sử
dụng nhiều nhất, chiếm vị trí áp đảo trên tất cả các chuyên mục của báo trực
tuyến bao giờ cũng là tin, với mô hình phổ biến là hình tháp ngược17. Các bài
viết chỉ xếp hàng thứ hai. Tuy nhiên qua quá trình khảo sát tại hai chuyên
mục: Kinh tế - Xã hội, chúng tôi thấy thấy thể loại thông dụng nhất của ba
tờbáo trực tuyến Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang là bài phản ánh sau đó
mới tới thể loại tin. Với Bắc Kạn Trực tuyến và Hà Giang Trực tuyến, tỉ lệ bài
17
Xin xem thêm Đặc điểm của loại hình báo trực tuyến, trang 13
65