Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 63 trang )
7
môn loại. Phƣơng thức này đƣợc bắt đầu áp dụng và nhanh chóng phát triển
trong những quốc gia nói tiếng Anh hồi đó.
1.1.2. Thƣ viện điện tử:
Thƣ viện điện tử có thể đƣợc hiểu theo nghĩa tổng quát nhất cho mọi loại
hình thƣ viện đã tin học hoá toàn bộ hoặc một số dịch vụ, và các hoạt động của
ngành thƣ viện. Thƣ viện điện tử có thể đƣợc coi nhƣ là nơi ngƣời sử dụng có
thể tới để thực hiện những công việc mà họ vẫn thƣờng làm với thƣ viện truyền
thống nhƣ là mƣợn trả sách hoặc tài liệu, nhƣng đã đƣợc tự động hoá các hoạt
động này. Theo tiến sĩ Ching-chih Chen, ngƣời đã có sáng kiến tổ chức một loạt
hội nghị quốc tế về công nghệ thông tin mới (NIT) [6] hơn mƣời năm gần đây
(từ 1987) thì hiện không có một tiêu chuẩn cố định, chính thức nào cho thƣ viện
điện tử. Ta có thể nhận biết một số đặc điểm của thƣ viện điện tử lý tƣởng nhƣ
sau:
- Thƣ viện phải có vốn tƣ liệu điện tử .Tƣ liệu điện tử là những tƣ liệu đƣợc
lƣu trữ dƣới dạng số sao cho có thể truy nhập đƣợc bằng các thiết bị xử lý
dữ liệu.
- Phải đƣợc tin học hoá trong thƣ viện. Phải có một hệ quản trị thƣ viện tích
hợp nhƣ bổ sung, biên mục, quản trị xuất bản phẩm định kỳ, kiểm soát
lƣu thông tƣ liệu, tổ chức mục lục truy nhập công cộng trực tuyến,... .Thƣ
viện phải đƣợc kết nối mạng, tối thiểu cũng phải là mạng cục bộ hoặc
Internet.
- Phải cung cấp và tạo điều kiện cho ngƣời dùng sử dụng các dịch vụ điện
tử nhƣ yêu cầu và gia hạn mƣợn qua mạng, tìm tin trong các cơ sở dữ
liệu, truy nhập và khai thác các nguồn tin tại chỗ và với tới các nguồn tin
ở nơi khác,....
Tóm lại, thƣ viện điện tử phải sử dụng các phƣơng tiện điện tử trong thu
thập, lƣu trữ, xử lý, tìm kiếm thông tin. Thƣ viện điện tử ra đời là kết quả của sự
hợp tác giữa các chuyên gia thƣ viện, nhà xuất bản, các nhà khoa học và công
nghệ thông tin hƣớng về mục tiêu tiếp cận tới đầy đủ thông tin, ở mọi nơi và
mọi lúc.
Thư viện điện tử là cổng vào thông tin
Thƣ viện có thể chỉ chọn phƣơng án tạo lập những kết nối với các nguồn
lực trên Internet, chứ không tổ chức cung cấp tƣ liệu đọc tại chỗ và điện tử hoá
các dịch vụ truyền thống. Những Thƣ viện nhƣ vậy dồn sức để thực hiện chức
năng của một cổng vào thông tin và chỉ giới thiệu thƣ viện nhƣ một kho tƣ liệu
ảo . Xu hƣớng hiện nay là xây dựng các thƣ viện điện tử dƣới hình thức các
trang web trên mạng thông tin toàn cầu.
Trƣớc khi lập một Website tức là địa chỉ cung cấp tin trên mạng, cần phải
xác định loại thông tin và dịch vụ nào cần đƣa lên mạng, liệu thƣ viện có xuất
bản các tƣ liệu riêng của mình hay sẽ xây dựng một sƣu tập từ các nguồn lực của
nơi khác hoặc kết hợp cả hai, liệu thƣ viện có tạo lập rất nhiều mối liên kết để
7
8
bao quát một phạm vi chủ đề rộng hay chỉ tập trung vào một số lĩnh vực chuyên
ngành hay thậm chí chỉ một chuyên ngành sau đó chia thành những mục hẹp
hơn, những vấn đề gì đang đƣợc ngƣời dùng quan tâm và đối tƣợng sử dụng là
ai , nguyên tắc nhóm hợp tài liệu nào đối với ngƣời dùng là thích hợp và dễ tìm
nhất trong quá trình tra cứu các trang web, thời gian và kinh phí phải mất thêm
khi thiết lập và duy trì thƣ viện điện tử.
Những dịch vụ có thể đƣa lên mạng là:
- Truy nhập các cơ sở dữ liệu do thƣ viện xây dựng hoặc do nơi khác làm,
có thu hoặc không thu lệ phí.
- Cung cấp tƣ liệu: cách này tiết kiệm đƣợc thời gian biên chế và ngƣời
dùng cũng nhƣ cuớc phí bƣu điện. Hiện nay phổ biến dùng e-mail để
chuyển yêu cầu, dùng e-mail hoặc fax để cung cấp tƣ liệu.
- Gia hạn mƣợn
- Gửi các thông báo của thƣ viện qua e-mail: về sách đặt đã tới lƣợt hoặc
đòi sách
- Tra cứu điện tử
- Dịch vụ trả lời bạn đọc ( trong vòng 24 giờ )
Nhiều thƣ viện đã có dạng điện tử (thƣ viện ảo) trên Internet, có nhiều phƣơng
án sử dụng công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu và yêu cầu của bạn đọc. Có nhiều
ý kiến tán thành nhƣng cũng có không ít ý kiến hoài nghi, thậm chí phản bác
việc xây dựng thƣ viện số ở các nƣớc đang phát triển. Nhiều vấn đề còn phải cân
nhắc và giải quyết trƣớc khi các thƣ viện đó hoạt động nhƣ một bộ phận thông
tin ổn định.
Về phƣơng diện kinh tế:
Bƣớc đầu tiên và khó khăn nhất trong việc phát triển thƣ viện số là
chuyển đổi các xuất bản phẩm truyền thống trên giấy sang dạng số. Vấn đề giá
thành / hiệu quả của quá trình số hoá khó thuyết phục do chi phí công nghệ và
sự cần thiết phải đầu tƣ liên tục vào công nghệ mới: Số hoá một trang tài liệu giá
thành khoảng 0,1 - 0,5 đôla (cách đây 10 năm là 2 đôla). Một thƣ viện lớn có
hàng triệu đơn vị tài liệu khó có thể số hoá toàn bộ kho tài liệu. Thiết bị cũng rất
tốn kém vì các dự án đòi hỏi những siêu máy tính có trang bị các bộ vi xử lý cực
mạnh, bộ nhớ và khối lƣợng lƣu trữ trong ổ cứng cực lớn. Kể cả trƣờng hợp
chuyển đổi số hoá toàn bộ ấn phẩm vào thƣ viện (số) truy nhập toàn cầu, thì
chắc chắn phần lớn các tƣ liệu này sẽ lại in ra từ máy để đọc trên giấy.
Về phƣơng diện kỹ thuật:
Mặc dầu vấn đề chất lƣợng sao lại chính xác dữ liệu trong quá trình số
hoá đã từng đặt ra và đến nay hầu nhƣ đã đƣợc giải quyết đƣợc bằng các máy
quét hiện đại chất lƣợng cao, nhƣng vấn đề vật liệu lƣu trữ vẫn không thể bền
đƣợc bằng các giấy không có axit.
Vấn đề bản quyền:
Bản quyền là một trở ngại đối với việc phát triển thƣ viện số, bởi vì thƣ
viện số bị ràng buộc bởi những điều khoản của luật bản quyền có liên quan đến
việc xuất bản lại các tƣ liệu dƣới hình thức mới, không có phép. Một thƣ viện
phải dung hoà giữa quyền sở hữu trí tuệ và quyền lợi của công chúng. Một mặt
8
9
tính chất công cộng của các thƣ viện xuất phát từ nguyên tắc phục vụ không lấy
tiền và không vụ lợi và bình đẳng trong truy nhập thông tin và tri thức. Khi
chuyển sang thƣ viện số thì chức năng này cũng không thể thay đổi. Mặt khác,
truy nhập toàn cầu tới thƣ viện số là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trƣờng
số, nhƣ vậy việc truy nhập công cộng miễn phí khó có thể dung hoà với cơ chế
thị trƣờng của việc phổ biến thông tin trong một nền kinh tế mà thông tin đƣợc
coi là hàng hoá.
1.1.3 Thƣ viện số:
Thƣ viện số là một bƣớc tiến xa hơn của thƣ viện điện tử hay có thể nói
cách khác, là thƣ viện điện tử cấp cao, cho phép đọc đƣợc thông tin toàn văn sau
khi đã số hoá hầu hết tƣ liệu, đặc biệt là các tƣ liệu dƣới dạng đồ hoạ nhƣ tranh
ảnh, bản đồ,... và các tƣ liệu đa phƣơng tiện (multimedia) .
Philip Baker cũng phân biệt thƣ viện điện tử và thƣ viện số theo một kiểu
khác. Ông cho rằng thƣ viện điện tử lƣu trữ và phục vụ cả ấn phẩm lẫn tƣ liệu
điện tử hoặc tƣ liệu đã đƣợc số hoá, trong khi đó thƣ viện số chỉ lƣu trữ các tƣ
liệu điện tử mà thôi [6]. Một thƣ viện điện tử có thiên hƣớng sử dụng linh hoạt
và phổ biến các nguồn tin điện tử nhƣng đồng thời cũng tham gia vào việc tạo ra
các nguồn tin đó. Các thƣ viện số cũng có nhiều định nghĩa khác nhau và nhiều
công trình nghiên cứu với quan điểm khác nhau.
Thƣ viện số là hình thức kết hợp giữa thiết bị tính toán, lƣu trữ và truyền
thông số với nội dung và phần mềm cần thiết để tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các
dịch vụ của các thƣ viện truyền thống vốn dựa trên các biện pháp thu thập, biên
mục [9] và phổ biến thông tin trên giấy và các vật liệu khác.
Thƣ viện số là tập hợp của các thiết bị tính toán, lƣu trữ và truyền thông
số với nội dung và phần mềm để tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ của
thƣ viện truyền thống nhƣ thu thập, biên mục, tìm kiếm và phổ biến thông tin.
Một thƣ viện số hoàn chỉnh phải thực hiện tất cả các dịch vụ cơ bản của thƣ viện
truyền thống kết hợp với việc khai thác các lợi thế của công nghệ lƣu trữ, tìm
kiếm và truyền thông số. Nghiên cứu về thƣ viện số bao gồm một loạt các vấn
đề kỹ thuật, xã hội và chính trị quyện lẫn vào nhau. Khái niệm thƣ viện số không
chỉ tƣơng đƣơng với một sƣu tập số hoá và các công cụ quản trị thông tin. Đúng
ra đó là một môi trƣờng tập hợp các sƣu tập, dịch vụ và con ngƣời để hỗ trợ cho
một chu trình hoàn chỉnh của việc sáng tạo, phổ biến, sử dụng và bảo quản dữ
liệu, thông tin và tri thức ( Hội thảo Santa Fe về môi trƣờng làm việc phổ biến
tri thức) và có hàm ý về một môi trƣờng mạng cung cấp nội dung.
Ngày nay ngƣời ta đang nghiên cứu thế hệ tiếp theo của các thƣ viện số
nhằm thúc đẩy việc sử dụng và nâng cao tính khả dụng của các nguồn tin đƣợc
nối mạng và phổ biến trên phạm vi toàn cầu, đồng thời cũng nhằm động viên
9
10
khuyến khích các dự án phát triển các công cụ phát hiện, quản trị, tìm và phân
tích thông tin hƣớng về các lĩnh vực ứng dụng và cải tiến đổi mới. Ngƣời ta
cũng tập trung nghiên cứu định nghĩa thƣ viện số và quan hệ của nó với thƣ viện
truyền thống cũng nhƣ quan hệ với các hệ thống rộng hơn có liên quan đến xuất
bản khoa học và thƣơng mại.
Thƣ viện số đƣợc xem nhƣ là các hệ thống cung cấp cho cộng đồng ngƣời
sử dụng cách tiếp cận lôgíc tới một kho tin và tri thức lớn, có tổ chức. Kỹ thuật
số đã làm tăng khả năng cho ngƣời sử dụng tiếp cận, tổ chức lại và sử dụng kho
tin. Một số ngƣời cho rằng trong một tƣơng lai không xa, thƣ viện số cần phải
liên kết cả ấn phẩm và tƣ liệu số và vấn đề chính yếu là phải cho phép bao quát
đƣợc một kho tin cực lớn. Theo ý kiến này nếu chỉ nhấn mạnh đến nội dung tƣ
liệu dƣới dạng số thì chƣa đủ. Lúc này, vô hình chung đã đề cập tới thƣ viện
điện tử. Có thể nói thƣ viện điện tử là thƣ viện lai giữa thƣ viện truyền thống và
thƣ viện số .
Trong thực tế hiện nay, mục tiêu là phải phát triển đƣợc các hệ thống công
nghệ thông tin cho phép tiếp cận đƣợc các kho tƣ liệu đƣợc số hoá ngày một
nhiều và khai thác đƣợc đầy đủ các tƣ liệu dƣới dạng số hoá. Nhƣ vậy, tính chất
đầy đủ và giá trị của vốn tƣ liệu có thể đƣợc gia tăng do khả năng tích hợp tƣ
liệu dƣới dạng số hoá và phƣơng pháp truy nhập thông tin dễ dàng hơn.
Thực tế có một sự kế thừa giữa vai trò, chức năng của thƣ viện truyền
thống và các mục tiêu của hệ thống thƣ viện số, nghĩa là chức năng phát triển, tổ
chức vốn tƣ liệu, tạo phƣơng tiện truy nhập và bảo quản của thƣ viện truyền
thống phải đƣợc mở rộng sang môi trƣờng thƣ viện số. Thƣ viện số sẽ là một bộ
phận của hệ thống dịch vụ thƣ viện rộng lớn trong tƣơng lai và các cán bộ thƣ
viện sẽ đóng một vai trò trung tâm trong phát triển và quản trị thƣ viện số.
Một thƣ viện số phải bao quát đƣợc các kho tƣ liệu số hoá, nghĩa là sẽ
phải tiến tới chỉ có một hệ thống thƣ viện số duy nhất nơi mà ngƣời sử dụng
ngày càng có khả năng truy nhập tới các loại hình sƣu tập số và hệ thống thông
tin số khác nhau: các nguồn tin của cá nhân, tập thể, cơ quan tổ chức, các môi
trƣờng hợp tác và các thƣ viện số công cộng.
Ƣu điểm của thƣ viện điện tử và thƣ viện số so với thƣ viện truyền thống
cũng giống nhƣ những lợi thế của cơ sở dữ liệu so với hệ thống mục lục và thƣ
mục thủ công: bổ sung vào sƣu tập nhanh hơn với sự kiểm soát về chất lƣợng tốt
hơn, các chức năng tìm kiếm thông tin đƣợc cải thiện, ngƣời sử dụng đƣợc truy
nhập nhanh hơn tới thông tin tìm đƣợc.
Các chức năng chính và dịch vụ của Thư viện số
Chức năng và dịch vụ của Thƣ viện số bao gồm ba chức năng sau:
- Ngƣời dùng có thể với tới đƣợc các dạng nguồn tri thức, thông tin.
10
11
- Tạo cơ chế phát hiện nguồn, cho phép ngƣời dùng nhận dạng, xác định
đƣợc các nguồn tin cần tìm và vị trí lƣu giữ các nguồn tin ấy.
- Cung cấp cơ chế chuyển giao các nguồn tin riêng biệt tới ngƣời dùng, kể cả
quá trình nhận các nguồn tin ở nơi khác và chuyển cho ngƣời dùng.
Một số dịch vụ cơ bản của thƣ viện số:
- Dịch vụ tàng trữ, nơi các đối tƣợng số đƣợc ký gửi và lƣu giữ.
- Dịch vụ định danh đảm bảo cho mỗi đối tƣợng số có một tên duy nhất và có
ít nhất một vị trí lƣu trữ.
- Dịch vụ chỉ mục: mô tả tập hợp các đối tƣợng số, chuyển đổi các câu hỏi
thành tập hợp kết quả tìm có chứa các tên nguồn duy nhất.
- Dịch vụ thu thập: lựa chọn theo các tiêu chí xác định, dựa vào các mục lục
chuyên môn hoá hoặc các phƣơng tiện trợ giúp phát hiện nguồn khác.
1.1.4 Quy tắc xây dựng và phát triển thƣ viện số và thƣ viện điện tử
- Cần phải có những dạng tƣ liệu tiêu biểu. Các thành phần tƣ liệu phải đƣợc
trình bày dƣới hình thức tự nhiên, cụ thể là những đối tƣợng có thể đƣợc vận
hành bởi ngƣời dùng quen thuộc với chúng.
- Kết hợp ba lĩnh vực :
+ Xã hội: nhƣ kỹ năng và kiến thức thông tin của ngƣời sử dụng, ảnh
hƣởng xã hội đối với dây chuyền chuyển giao công nghệ thông tin, luật
pháp và chính sách.
+ Thông tin: tổ chức, phát hiện nguồn, vai trò của siêu dữ liệu,...
+ Hệ thống: tƣơng tác ngƣời - máy, phần mềm và cấu trúc, qui mô và
tƣơng tác
- Các đƣờng liên kết phải đƣợc ghi lại, giữ gìn, tổ chức và tổng quát hoá.
- Phải có sự phân tách giữa thƣ viện số và giao diện ngƣời dùng cho thƣ viện đó.
Đối tƣợng của thƣ viện số đƣợc sử dụng khác với đối tƣợng đƣợc lƣu trữ. Ngƣời
dùng tin cần nội dung trí tuệ của tƣ liệu chứ không phải là đối tƣợng số.
- Sử dụng những phƣơng pháp tìm kiếm tiên tiến nhƣ tìm kiếm liên thƣ viện
Z39.50.
- Phải phát triển các hệ thống mở, bao gồm ngƣời dùng và địa điểm nơi mà một
số chức năng của cán bộ thƣ viện sẽ đƣợc tự động hoá do máy tính thực hiện.
- Phải hỗ trợ việc truy nhập theo nhiệm vụ tới các nguồn lƣu trữ điện tử
- Phải có quan điểm phát triển lấy ngƣời dùng làm trung tâm. Ngƣời dùng phải
làm việc với những đối tƣợng ở mức tổng quát hoá thích hợp.
1.1.5 Quá trình hình thành thƣ viện điện tử và thƣ viện số
Ngày nay công nghệ thông tin đã và đang phát triển mạnh trong tất cả các
lĩnh vực nhƣ ngành kinh tế, khoa học, giao dục,…trong đó ngành thƣ viện đã và
đang từng bƣớc tự động hoá những hoạt động trong ngành thƣ viện. Những
11
12
thành tựu của Công nghệ thông tin nhƣ công nghệ máy tính và truyền thông,
xuất bản điện tử, công nghệ truyên thông đa phƣơng tiện, Internet và mạng toàn
cầu, giúp cho các thƣ viện và cơ quan thông tin – thƣ viện đƣa ra những dịch vụ
và phƣơng pháp quản trị thông tin, cơ sơ dữ liệu hữu hiệu cũng nhƣ việc truy
nhập thông tin và chia sẻ nguồn lực, tạo điều kiện cho việc xây dựng thƣ viện
điện tử hay thƣ viện số.
Thƣ viện điện tử và thƣ viện số đã đƣợc xây dựng ở các nƣớc phát triển
nhƣ Mỹ, Anh, Canada, Úc…. Thƣ viện Quốc hội Hoa kỳ đã tiến hành một
chƣơng trình thƣ viện số khổng lồ nhằm chuyển đổi vốn tƣ liệu in truyền thống
sang các nguồn tin điện tử linh hoạt và nếu công việc thực hiện đúng tiến độ kế
hoạch thì độc giả và những ngƣời dùng tin ở khắp nơi trên thế giới trong thế kỷ
21 sẽ có thể bật máy tính, tìm đến cơ sở dữ liệu và truy nhập tới kho tƣ liệu số
hoá của Thƣ viện Quốc hội Hoa kỳ, ngoài ra nhiều thƣ viện đại học Mỹ cũng
đang tìm cách để đƣa các sƣu tập thƣ viện vào máy tính và đƣa lên mạng để bạn
đọc truy nhập sử dụng rộng rãi, các chuyên gia cũng có tham vọng tập hợp tƣ
liệu số từ nhiều nơi và thậm chí trên phạm vi toàn cầu, xây dựng thƣ viện toàn
cầu để thông qua Internet, mọi ngƣời ở bất cứ nơi nào cũng có thể truy nhập.
Các vấn đề thường gặp khi xây dựng thư viện điện tử và thư viện số
- Khó tìm do thiếu công cụ hoặc do bộ máy tìm kiếm tổ chức kém.
- Thiếu các tham chiếu qua lại và mối liên kết với các tƣ liệu khác.
- Quá nhiều đƣờng liên kết không hợp lý hoặc dẫn tới các thông tin vô
dụng.
- Thƣờng xuyên nâng cấp khiến ngƣời dùng nhiều khi phải phán đoán mò
mẫm nơi có các thông tin đã đƣợc định vị trƣớc đây.
- Thiếu sự nhất quán trong khi trình bày những thông tin tƣơng tự.
- Thông tin lạc hậu, không cập nhật, sai ngữ pháp và chính tả.
- Khổ mẫu không thống nhất nên gặp rắc rối khi tham chiếu trực tuyến và
in ra.
1.1.6 Sự phát triển Thƣ viện điện tử và Thƣ viện số ở nƣớc ta trong những
năm hiện nay
Khái niệm " Thƣ viện điện tử" và "Thƣ viện số" còn tƣơng đối mới đối
với cộng đồng thƣ viện Việt Nam. Có lẽ nhu cầu chung nghiên cứu vấn đề này
bắt đầu từ khi vạch định chiến lƣợc phát triển thông tin - thƣ viện cho đến năm
2010, 2020, trƣớc xu thế của sự chuyển hƣớng toàn cầu sang xã hội thông tin và
sự xuất hiện của thời đại công nghệ thông tin. Ngoài ra, vấn đề không gian lƣu
trữ các tƣ liệu truyền thống dƣới dạng ấn phẩm trong phần lớn các thƣ viện Việt
12
13
Nam đã trở nên cấp bách khiến cho nhiều ngƣời đã mơ ƣớc thực hiện giải pháp
cứu cánh: số hoá kho tƣ liệu, ngoài xu hƣớng vi hình hoá nay đã lỗi thời, hi
vọng rằng bằng cách phát triển các thƣ viện điện tử và thƣ viện số, sẽ không
phải xây thêm kho tàng, nhà cửa, mặc dầu động cơ chính của việc thành lập các
thƣ viện số là nhằm để chia sẻ nguồn lực với tác dụng chẳng những tăng khả
năng truy nhập thông tin, sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn kinh phí mua sách
báo trƣớc tình hình giá xuất bản phẩm trên thị trƣờng sách thế giới tăng vọt, mà
còn khắc phục tình trạng trùng lặp, dƣ thừa trong các kho tƣ liệu.
Trong trào lƣu toàn cầu hƣớng về các thƣ viện điện tử và thƣ viện số, khó khăn
nhất cho nƣớc ta, trong việc xây dựng các loại hình thƣ viện này theo đúng
nghĩa của nó, là vấn đề kinh tế. Xây dựng những thƣ viện điện tử "lý tƣởng",
độc lập, với vốn tƣ liệu hoàn toàn số hoá, với toàn bộ dịch vụ chuyển sang
phƣơng thức điện tử, sẽ không khả thi, mà xu hƣớng sẽ xuất hiện nhiều thƣ viện
điện tử (theo ý nghĩa tƣơng đối) nhƣ là kết quả của quá trình tin học hoá, nhƣ là
các cổng vào thông tin và nhƣ một bộ phận của các thƣ viện lớn truyền thống ở
Việt Nam.
Trong chừng mực nào đó, có thể nói chúng ta đã đang tiến trên con đƣờng xây
dựng thƣ viện điện tử hoặc ở trong giai đoạn quá độ xây dựng thƣ viện điện tử.
Mặc dầu vậy, có lẽ tốt hơn hết là đừng quá vội sử dụng các thuật ngữ nói trên
(thƣ viện điện tử, thƣ viện số và thƣ viện ảo) trong lúc khái niệm và thuật ngữ
còn chƣa thống nhất và ổn định, để gọi tên một thƣ viện. Tạo nên sự chuyển
biến về chất trong vốn tƣ liệu, dịch vụ và ngƣời sử dụng là điều quan trọng hơn
để minh chứng cho việc đặt tên. Bao giờ lƣợng đổi thành chất trong quá trình số
hoá vốn tƣ liệu, điện tử hoá dịch vụ và chuyển đổi phƣơng cách sử dụng thƣ
viện sẽ là lúc chúng ta có thể nói về một thƣ viện điện tử thực thụ. Con đƣờng
mà đại bộ phận thƣ viện chúng ta sẽ đi là: kết hợp các nguồn tin truyền thống
với hiện đại, bổ sung thêm các tạp chí điện tử toàn văn trên CD-ROM ( hiện còn
quá ít), đặt mua ( trả tiền thuê bao truy nhập) các tạp chí điện tử toàn văn trên
mạng ( hầu nhƣ chƣa nơi nào làm); số hoá một phần vốn tƣ liệu ( đặc biệt là các
sƣu tập quí hiếm và nơi khác không có, những sƣu tập là thế mạnh của mình,...),
điện tử hoá một phần dịch vụ và tạo điều kiện cho ngƣời sử dụng chủ động khai
thác các mạng diện rộng, kể cả truy nhập Internet.
1.1.4 Thƣ viện ảo
Thƣ viện ảo là một dạng của thực tế ảo (virtual reality), đƣợc xây dựng trên cơ
sở công nghệ ảo ( đôi khi phối hợp với kỹ thuật âm thanh nổi và hình ảnh nổi để
tạo ảo giác nhƣ thực), nhấn mạnh đến tính chất "phi không gian" của loại hình
thƣ viện này về phƣơng diện vốn tƣ liệu và dịch vụ. Bất cứ thƣ viện nào tạo điều
kiện cho ngƣời đọc tiếp cận đƣợc những tƣ liệu nằm tại bất cứ nơi nào khác trên
thế giới đều có thể đƣợc coi là "thƣ viện ảo" [6]. Nói cách khác, thƣ viện ảo
không phụ thuộc vào một địa điểm cố định và cho phép truy nhập thông tin từ xa
thông qua mạng. Còn thƣ viện điện tử có một địa điểm cụ thể, hữu hình, nơi bạn
13
14
đọc hay ngƣời sử dụng có thể tới để nhận những sản phẩm và dịch vụ đƣợc cung
cấp dƣới dạng điện tử. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng thƣ viện ảo nằm
trong phạm trù thƣ viện điện tử, trong thƣ viện điện tử có thƣ viện ảo.
1.2 Tra cứu trực tuyến OPAC
OPAC là một mục lục điện tử. Nó tƣơng đƣơng với mục lục phiếu nhƣng
có khả năng tìm kiếm trực tuyến. OPAC cũng có thể là chạy trên Web và đƣợc
gọi là Web OPAC [1]. Web OPAC dùng cho các thƣ viện để chia sẻ thông tin
thƣ mục.
OPAC là cổng kết nối với ngƣời dùng tin với cơ sở dữ liệu của cơ quan thông
tin – thƣ viện. Cung cấp khả năng tìm kiếm các biểu thức tìm tin từ đơn giản đến
phức tạp cả về các thông tin mô tả lẫn thông tin toàn văn. Khả năng khai thông
tin bằng công cụ tìm kiếm theo khái niệm của OPAC tạo ra một cuộc cách mạng
trong tìm kiếm thông tin. Với khả năng sẵn sàng đƣa lên Internet, OPAC cho
phép ngƣời dùng ở bất kỳ nơi nào cũng có thể truy cập đƣợc nguồn thông tin của
các cơ quan thông tin – thƣ viện thông qua trình duyệt Web.
Một số dịch vụ đƣợc cung cấp trên OPAC : mục lục tra cứu tìm tin trực tuyến;
lƣu thông trực tuyến; dịch vụ thông tin trực tuyến; dịch vụ liên thƣ viện; khai
thác dữ liệu số trực tuyến, tra cứu liên thƣ viện qua giao thức Z39.50 tại nhiều
máy chủ Z39.50 cùng một lúc.
14
15
Chƣơng 2: CÁC CHUẨN TRONG THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ
2.1
Chuẩn biên mục và siêu dữ liệu:
2.1.1 Khổ mẫu biên mục – MARC
Phƣơng pháp tạo lập bản ghi thƣ mục ở phần lớn các cơ quan thông tin –
thƣ viện hiện nay dựa vào khổ mẫu MARC (Machine Readable Cataloguning) –
Biên mục có thể đọc bằng máy. Khổ mẫu MARC là một cấu trúc dành riêng cho
các dữ liệu thƣ mục quản lý bằng máy tính điện tử. Nét đọc đáo của nó là đƣa ra
một phƣơng pháp mã hóa dựa trên cơ sở phân tích sâu sắc nhữn yếu tố thƣ mục
(trong đó chịu ảnh hƣởng rất lớn của quy tắc biện mục Anh - Mỹ AACR)
Đến nay đã có rất nhiều khổ mẫu MARC ra đời UNIMARC của IFLA ra đời
giữa những nămn 70, NORMARC 1971 (NaUy), IBERMARC 1976 (Tây Ba
Nha), DANMARC 1976 (Đan Mạch), LIBRISMARC 1976 (Thụy Điển),
FINMARC1977 (Phần Lan), MALMARC 1978 (Malaysia), PHILMARC 1979
(Philippin), KORMARC 1981 (Hàn Quốc), Janpa /MARC 1981 (Nhật Bản),
Chinese MARC 1982 (Đài Loan), SAMARC 1982 (Nam Phi), NewZealand
MARC 1982 (Tân Tây Lan), SBN\ANAMARC 1983 (Italia), SINGMARC
(Singapore), Indian MARC 1985 (Ấn Độ), PUL MARC 1985 (Trung Quốc),
INDOMARC 1990 (Indonesia) [1, 2] vv…,tuy nhiện đƣợc sử dụng nhiều nhất là
khổ MARC21 do Thƣ viện Quốc hội Mỹ phát triển.
MARC 21
Bibliographic
KM biên mục
Authority
KM nhất quán
Classification
KM phân loại
Holding
KM lƣu trữ
Community
KM cộng đồng
Hình 1. Thành phần MARC21
Khổ mẫu biên mục (BDF – Biliographic): đƣợc thiết kế chứa dữ liệu liên quan
đến thông tin hình thức (tác giả, nhan đề, thông tin xuất bản) và nội dung của tài
liệu (chỉ số phân loại, chủ đề, từ khoá,…)
Khổ mẫu nhất quán –ADF: đƣợc thiết kế để mang thông tin có liên quan đến
những hình thức chuẩn của tên và chủ đề đƣợc dùng nhƣ là điểm truy nhập trong
các bản ghi MARC, các hình thức tên, chủ đề và phụ đề này đƣợc dùng nhƣ
những tham chiếu tới các hình thức chuẩn và các mối quan hệ qua lại giữa
những hình thức này. Một tên có thể đƣợc dùng nhƣ là một tiêu đề (điểm truy
nhập) chính, bổ sung, tiêu đề bổ sung theo chủ đề, tiêu đề bổ sung theo tùng thƣ.
15