1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT LÀO VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC TRONG TƯƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.48 KB, 85 trang )


tắc bảo đảm quyền của người lập di chúc theo Điều 24 “Nhân dân của nước

Cộng hòa dân chủ nhân Lào có quyền tặng, chuyển và lập di chúc cho một

người hay là nhiều người và cho các cơ quan tổ chức đã có thẩm quyền liên

quan...”. Tự nguyện được xem là việc thực hiện một việc theo ý của mình, do

mình muốn, không phụ thuộc vào bất cứ một chủ thể khác. Về bản chất, tự

nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của

họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan,

mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình thức thể hiện ra bên

ngoài sự mong muốn đó. Vì vậy, việc phá vỡ sự thống nhất đó chính là đã làm

mất đi tính tự nguyện của người lập di chúc. Tuy nhiên, sự thống nhất đó sẽ

dễ dàng bị phá vỡ khi có sự lừa đối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Sự lừa dối này

thường thể hiện ở hành vi đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm

tác động ý chí của người lập di chúc (lừa dối mình là con của người lập di

chúc để được hưởng thừa kế theo di chúc, làm tài liệu giả để cho người có tài

sản tin rằng một người đã chết hoặc đã mất tích nên không lập di chúc để lại

di sản cho người đó mà để lại cho người làm tài liệu giả…). Sự đe doạ hoặc

cưỡng ép có thể là về mặt tinh thần (dọa thực hiện hành vi làm mất danh dự,

uy tín của người lập di chúc, đem tính mạng người thân của người lập di chúc

ra uy hiếp…) hoặc về mặt thể chất như (đánh đập, giam cầm, hành hạ…). Vì

thế, điều kiện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó đảm bảo cho việc thể

hiện ý chí của người lập di chúc đúng với ước muốn của chính họ.

Hình thức di chúc phải tuân thủ các quy định của pháp luật, hình thức

của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc (nội dung

của di chúc) là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là

chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy,

di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định. Điều 26 Luật thừa kế

năm 2008 của Lào quy định “Quan điểm lập di chúc nước Cộng hòa dân chủ



23



nhân Lào. Di chúc có thể lập bằng hai cách khác nhau như sau đây: Lập di

chúc bằng văn bản, lập di chúc bằng miệng”. Đây là hai hình thức phổ biến

mà pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều thừa nhận.

Hình thức di chúc bằng văn bản: Là loại di chúc được thể hiện dưới

dạng chữ viết (viết tay, đánh máy rồi in ra) phải có công chứng của cơ quan

có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 27 Luật thừa kế năm 2008 của Lào thì

di chúc bằng văn bản phải do chủ tài sản viết, trong trường hợp do tình hình

sức khỏe không thể tự viết được mà nhờ người khác viết thì phải có ba người

làm chứng. Trong di chúc phải có đầy đủ các nội dung về địa điểm, ngày,

tháng, năm, loại di chúc. Về thừa kế tài sản phải nói rõ là để lại tài sản cho ai,

họ tên gì và họ có quan hệ thế nào với chủ tài sản. Trong trường hợp viết

thay, có người làm chứng thì phải nói rõ người thừa kế có quan hệ thế nào với

người viết, người làm chứng. Di chúc phải có đầy đủ chữ ký là chủ tài sản,

người viết thay, người làm chứng. Di chúc phải được bảo vệ để không bị rách

nát, mất mát, sửa chữa.

Di chúc bằng miệng: Là hình thức di chúc được thể hiện bằng lời nói.

Di chúc bằng miệng khác với di chúc bằng văn bản, di chúc miệng là sự bày

tỏ bằng lời nói của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định

đoạt khối tài sản của mình cho người khác trước khi chết. Đây là hình thức di

chúc khó để lại bằng chứng khi tranh chấp xảy ra mặc dù có người làm

chứng. Vì vậy, pháp luật chỉ thừa nhận di chúc miệng có giá trị trong một số

trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 28 Luật thừa kế năm 2008, đó là:

Thứ nhất, trong trường hợp người chủ tài sản không thể lập di chúc

bằng văn bản như sắp chết, sức khỏe yếu và các lý do bất khả kháng khác thì

chủ sở hữu tài sản có thể lập di chúc bằng miệng.

Thứ hai, chủ tài sản phải thể hiện ý chí của mình trước mặt người làm

chứng, ít nhất là ba người và ngay sau đó những người làm chứng phải thông



24



báo cho các cơ quan tổ chức làng, bản biết về những gì người đó trước khi

chết đã nói, đồng thời nêu rõ cho cơ quan, làng, bản biết lý do chủ tài sản

không thể lập di chúc bằng văn bản.

Thứ ba, di chúc miệng chỉ tồn tại trong vòng một tháng nếu sau đó chủ tài

sản không chết nữa mà tỉnh táo, bình thường lại thì di chúc miệng sẽ bị xóa bỏ.

Nhìn chung, pháp luật thừa kế của Lào quy định về hình thức văn bản

có một vài điểm khác so với quy định với các nước, đặc biệt là Việt Nam.

Theo Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam thì “di chúc bằng văn bản có thể

có hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước” [23, Đ648]. Về di chúc

miệng thì quy định người làm chứng chỉ cần hai người mà không phải ba

người như ở Lào. Việc ghi chép lại lời của người chủ tài sản là do người làm

chứng viết chứ không như ở Lào người làm chứng chỉ có nghĩa vụ báo với cơ

quan tổ chức làng bản để những cơ quan tổ chức này viết ra. Thời gian có

hiệu lực di chúc miệng ở Lào cũng quy định thời gian ngắn so với Việt Nam

(pháp luật thừa kế nước Lào quy định một tháng, pháp luật thừa kế Việt Nam

quy định ba tháng) [23, Đ651].

Nội dung di chúc: Nội dung di chúc là mặt “bên trong” của di chúc. Nó

thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho

những người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định người thừa kế, giao nghĩa vụ

cho người thừa kế, phân định di sản thừa kế, đưa ra các điều kiện để chia di

sản thừa kế. Cũng như pháp luật Việt Nam, Luật thừa kế năm 2008 của Lào

quy định nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Quy định

này thể hiện sự tự do ý chí của người lập di chúc là tự do có giới hạn, tự do

trong khuôn khổ pháp luật. Trong đó, ý chí của người lập di chúc phải tương

đồng với ý chí của Nhà nước đã được quy định trong các văn bản pháp luật.

Ngoài ra, ý chí đó còn phải phù hợp với đạo đức xã hội. Đó là những

chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được

cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.



25



Nếu như Việt Nam quy định vợ chồng có thể lập di chúc chung để định

đoạt di sản chung của mình [23, Đ664] thì pháp luật Lào không quy định vợ

chồng có quyền được lập di chúc để định đoạt di sản. Như vậy, nếu vợ chồng

lập di chúc chung thì di chúc này không được xem là hợp pháp.

Mặt khác, pháp luật thừa kế Lào quy định một di chúc được xem là

hợp pháp nếu như di chúc đó được công chứng, chứng thực mà không có

trường hợp nào là ngoại lệ, khác với pháp luật Việt Nam quy định có những

trường hợp di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực nhưng

lại có hiệu lực giống như di chúc có công chứng, chứng thực đó là các

trường hợp nguy cấp quá như: “Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận

của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu

cầu công chứng hoặc chứng thực; di chúc của người đang đi trên tàu biển,

máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; di chúc của người

đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận

của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó; di chúc của người đang làm công

việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của

người phụ trách đơn vị; di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài

có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước

đó; di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người

đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa

bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó”[23; Ð660].

Như vậy, so với pháp luật Lào thì quy định này của pháp luật Việt Nam

hợp lý hơn, nó đảm bảo cho người lập di chúc thực hiện được quyền định đoạt

tài sản của mình trong những trường hợp nguy cấp nhất nhằm để lại tài sản

của mình cho những người mà họ mong muốn được hưởng.

2.2. Ngƣời lập di chúc và quyền của ngƣời lập di chúc

Người lập di chúc là cá nhân mà thông qua việc lập di chúc để định

đoạt tài sản của mình cho những người khác sau khi chết với ý hoàn toàn tự



26



nguyện. Mặc dù pháp luật thừa kế Lào không có một điều khoản cụ thể nào

quy định về người lập di chúc, nhưng dựa trên cơ sở Điều 24 quy định về

quyền của người tặng, chuyển và lập di chúc và Điều 35 về điều kiện để

một di chúc có hiệu lực pháp luật. Người lập di chúc phải đảm bảo các điều

kiện sau đây:

Thứ nhất, người lập di chúc phải là cá nhân có tài sản thuộc sở hữu của

mình; cơ quan, tổ chức không có quyền lập di chúc.

Thứ hai, người lập di chúc phải là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở

lên) không mắc bệnh tâm thần, hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận

thức hoặc làm chủ hành vi của mình. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương

thể hiện ý chí của cá nhân. Vì thế, khi lập di chúc cá nhân đó phải là người có

năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Họ là người đã thành niên từ đủ mười tám

tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức

hoặc làm chủ được hành vi của mình.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng

hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi lập di chúc

người lập di chúc thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình, tài sản này sẽ

được chuyển giao cho người khác sau khi họ chết, để đảm bảo chắc chắn rằng

đây là ý nguyện thực sự của người lập di chúc, pháp luật quy định họ phải là

người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Khi cá nhân lập di chúc để lại tài sản của mình cho người khác chính là

người đó đang thực hiện quyền định đoạt của mình đối với tài sản. Pháp luật

quy định người lập di chúc có các quyền sau đây:

Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất kì cá nhân, cơ quan, tổ

chức nào. Người nhận di sản có thể là cá nhân thuộc diện thừa kế hoặc không

thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chết hoặc cũng có thể là tổ chức



27



kinh tế, cơ quan Nhà nước. Pháp luật cho phép người để lại di sản có quyền

để lại tài sản cho ai theo ý chí của mình, có quyền truất quyền thừa kế di sản

của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Phân định di sản thừa kế cho từng người thừa kế.

Nếu như thừa kế theo pháp luật thì mỗi người cùng hàng thừa kế đều

được hưởng phần bằng nhau, thì thừa kế theo di chúc phụ thuộc vào ý chí của

người lập di chúc. Nếu như pháp luật Việt Nam quy định người lập di chúc

toàn quyền trong việc định đoạt tài sản của mình, thì pháp luật Lào quy định

quyền định đoạt của người lập di chúc bị giới hạn, nghĩa là có quyền định đoạt

nhưng phải tuân thủ theo luật định. Ví dụ như để bảo vệ lợi ích của một số

người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục

tập quán, truyền thống từ xưa của cha ông dân tộc Lào, pháp luật Lào đã hạn

chế quyền lập di chúc được thể hiện tại Điều 25 Luật thừa kế năm 2008 như

sau: Chủ tài sản chỉ được lập di chúc để lại không quá ½ tài sản thuộc sở hữu

của mình cho người con (trong trường hợp chỉ có một đứa con). Nếu trong di

chúc để lại quá phần pháp luật quy định trên thì người con đó cũng chỉ được

hưởng đến ½ mà thôi, phần còn lại ½ sẽ đem chia theo pháp luật cho những

người thuộc hàng thừa kế thứ nhất như vợ/chồng, cha mẹ, ông bà nội ngoại...

Chủ tài sản chỉ được lập di chúc để lại không quá 1/3 tài sản của mình

cho một người con (trường hợp họ có hai con). Nếu di chúc thể hiện phần di

sản để lại quá 1/3 cho một người con thừa kế thì phần vượt quá cũng đem chia

theo pháp luật như đã nói ở trên. Ở đây cần lưu ý, pháp luật quy định để lại

không quá 1/3 di sản cho một người, một 1/3 khác cho thêm một người con

nữa và còn 1/3 còn lại sẽ đem chia cho những người khác.

Trong trường hợp người đó có ba đứa con trở lên thì phần để lại di sản

cũng không được quá ¼. Cũng giống như quy định ở trên, mỗi con chỉ được

hưởng không quá ¼ phần tài sản của người chết để lại, không được hưởng

phần của mình vượt quy định.



28



Như vậy, pháp luật không cho phép người lập di chúc tự ý để lại tất cả

tài sản cho một người con nếu người đó có từ hai con trở lên, hay để lại phần

tài sản vượt quá quy định pháp luật. Đây là sự khác biệt giữa pháp luật Lào so

với luật pháp Việt Nam khi hạn chế phần tài sản để lại cho các con. Đó cũng

là nét văn hóa của dân tộc Lào nhằm đảm bảo quyền lợi ngang nhau giữa các

con trong cùng một gia đình, để các con cùng có chung một nghĩa vụ đối với

người đã khuất, tránh tình trạng do thừa kế giữa các con mất sự bình đẳng sẽ

gây ra “những cuộc chiến” giữa các thành viên trong gia đình.

Mặc dù pháp luật thừa kế Lào đảm bảo cho người lập di chúc có quyền

để lại tài sản của mình cho bất cứ ai. Nhưng bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn

chế một số điều nhằm đảm bảo giữ gìn truyền thống văn hóa, đạo đức của dân

tộc. Như vậy, so với pháp luật Việt Nam thì quyền định đoạt của người lập di

chúc bị hạn chế rất nhiều. Vì trong luật dân sự Việt Nam không quy định việc

giới hạn quyền lập di chúc. Việc để lại di sản cho người con nào là tùy ý chí

của chủ tài sản.

Thay đổi hoặc xóa bỏ di chúc đã lập.

Theo quy định tại Điều 35 Luật thừa kế năm 2008 thì:

“Chủ tài sản có quyền thay đổi hay là xóa bỏ di chúc của mình đã lập

trong mỗi thời gian và có thể lập di chúc mới. Di chúc mới này sẽ bị xóa bỏ di chúc

cũ một phần nào đó hay là tất cả do nó sẽ không hợp với di chúc mới lập lên”.

Thay đổi di chúc là việc người để lại di sản lập di chúc thay thế cho di

chúc cũ. Trong trường hợp di chúc thay thế có nội dung phủ định di chúc đã

lập thì di chúc thay thế có hiệu lực pháp luật còn di chúc bị thay thế không

phát sinh hiệu lực.

Xóa bỏ di chúc là việc người lập di chúc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ

di chúc của mình bằng cách không công nhận một phần hoặc toàn bộ di chúc

đã lập có giá trị pháp lý. Việc xóa bỏ di chúc bằng hình thức tiêu hủy các di



29



chúc đã lập, lập văn bản tuyên bố xóa bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc.

Khác với pháp luật Việt Nam, xóa bỏ di chúc trong pháp luật thừa kế Lào

được hiểu theo hai nghĩa, có thể là xóa bỏ một phần (Việt Nam gọi là sửa đổi)

cũng có thể là xóa bỏ toàn bộ (Việt Nam gọi là hủy bỏ).

Tổ chức người thực hiện di chúc.

Nếu như pháp luật Việt Nam gọi là người quản lý di sản, phân chia di

sản thì pháp luật Lào gọi là tổ chức người thực hiện di chúc. Việc tổ chức

người thực hiện di chúc này có thể do chủ tài sản (người lập di chúc), một

người nào đó đã có quy định rõ trong di chúc hay là một người nào đó đã có

quyền thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp chủ tài sản không được tổ chức

về việc này hay là người đã tổ chức đã chết, mất tích thì việc tổ chức người

thực hiện di chúc do Tòa án nhân dân tuyên bố quy định [18, Đ36]. Bên cạnh

đó pháp luật thừa kế Lào cũng quy định chủ tài sản có quyền tổ chức một

người nào đó để bảo vệ di chúc của mình trong trường hợp chủ tài sản có mục

đích muốn lập di chúc cho người chưa thành niên hay cho người đã mất năng

hành vi dân sự. Người bảo vệ tài sản có thể tổ chức cho người khác để thay

mặt gửi những tài sản đó trừ trường hợp chủ tài sản đã lập trong di chúc khác.

Quyền của người bảo vệ tài sản sẽ hết hạn trong khi người đó đã thành niên

hay là người đã mất năng lực hanh vi dân sự trở lại bình thường.

Dành một phần di sản để thờ cúng.

Pháp luật quy định về thừa kế cho người lập di chúc có quyền dành

phần di sản để “làm chỗ thờ cúng anh chị em và những người khác” [18,

Đ24]. Đây là một phong tục tập quán có từ lâu đời và hiện nay vẫn được coi

trọng. Việc thờ cúng tổ tiên được thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang

tính chất đạo đức và văn hóa, tôn trọng và biết ơn công sinh thành, dưỡng

dục, con người có cội nguồn, tổ tông cho nên con cháu phải tôn trọng và biết

ơn những thế hệ trước. Trong việc thờ cúng, di sản thờ cúng có một ý nghĩa



30



hết sức quan trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà còn giá trị về

mặt tinh thần. Đây là nét khác biệt so với pháp luật của các nước phương Tây

vốn xa lạ với việc thờ cúng tổ tiên.

Có thể nói pháp luật quy định về quyền của người lập di chúc có ý

nghĩa hết sức quan trọng về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn. Các quy định này

gắn chặt với đạo đức, phong tục tập quán của dân tộc Lào trong mối quan hệ

ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau, góp giữ gìn và phát huy

những phong tục tập quán ấy trong đời sống xã hội là một đảm bảo quan

trọng để các quy định về thừa kế theo di chúc đi vào thực tế cuộc sống.

2.3. Ngƣời thừa kế theo di chúc và ngƣời thừa kế không phụ thuộc

vào nội dung của di chúc

Người thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người

có di sản nên phạm vi của người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc rộng

hơn nhiều so với người được hưởng di sản theo pháp luật. Theo quy định tại

Điều 24 Luật thừa kế năm 2008 thì người thừa kế theo di chúc có thể là cá

nhân hoặc tổ chức.

Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân bất kỳ, nếu được chỉ định

trong di chúc mà không cần xét đến quan hệ khác của họ đối với người để lại

di sản. Người thừa kế theo di chúc có thể là người thuộc diện thừa kế theo

pháp luật của người để lại di sản hoặc không thuộc diện thừa kế theo pháp

luật của người để lại di sản. Pháp luật không quy định phạm vi những người

được hưởng thừa kế theo di chúc mà việc hưởng di sản của người chết theo di

chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt

tài sản của họ để lại cho những người thừa kế. Phần di sản mà mỗi người

được hưởng theo di chúc có thể bằng nhau, nhiều hơn hoặc ít hơn. Điều này

tùy thuộc vào việc phân định tài sản của người lập di chúc. Người được

hưởng thừa kế theo di chúc phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:



31



Đối với người thừa kế là cá nhân thì phải còn sống vào thời điểm mở

thừa kế hoặc khi đứa trẻ đang được người mẹ mang thai: “Con đang mang

thai có quyền hưởng tài sản của người chết như nhau, phần này là cho mẹ là

người quản lý những tài sản đó” [18, Đ16]. Pháp luật chỉ quy định con đang

mang thai mà không có quy định cụ thể tại thời điểm mở thừa kế người con

đó có được sinh ra và còn sống không. Đây cũng là điểm khác biệt với pháp

luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam quy định đối với cá nhân thì cá nhân phải

còn sống vào thời điểm mở thừa kế, còn đối với đứa trẻ mà bà mẹ đang mang

thai chỉ được hưởng thừa kế khi sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa

kế. Chính vì sự quy định không chặt chẽ này mà pháp luật Lào làm phát sinh

rất nhiều mâu thuẫn trong các gia đình khi giải quyết tài sản của đứa con mà

người mẹ mang thai sinh ra và chết thì tại sản này thuộc về ai?

Đối với cơ quan, tổ chức pháp luật cũng quy định cơ quan vẫn được

hưởng thừa kế theo di chúc, nhưng không nói rõ cơ quan này có phải tồn tại

vào thời điểm mở thừa kế hay không. Theo quy định của pháp luật dân sự Việt

Nam, các pháp nhân cùng loại có thể bị chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất, chia,

tách. Nhưng trong những trường hợp này, pháp nhân không chấm dứt tuyệt đối

mà quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho các pháp nhân khác. Hoặc

pháp nhân cũng có thể bị chấm dứt theo quy định về giải thể hoặc phá sản. Khi

này pháp nhân chấm dứt “tuyệt đối”. Sau khi pháp nhân chấm dứt, một thời

gian sau mới phát sinh vụ việc tranh chấp thừa kế mà pháp nhân đó được chỉ

định là người thừa kế và tại thời điểm mở thừa kế pháp nhân chưa bị giải thể

hoặc phá sản thì ai, cơ quan nào sẽ thay mặt pháp nhân để nhận di sản hay khi

này tài sản được coi là tài sản vô chủ và thuộc về Nhà nước?

Mặt khác, theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, pháp nhân đã

bị giải thể, bị tuyên bố phá sản có thể được thành lập lại theo quyết định của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy, trường hợp pháp nhân đó bị giải thể,



32



bị tuyên bố phá sản trước thời điểm mở thừa kế, nhưng sau thời điểm mở thừa

kế lại được thành lập lại thì pháp nhân đó có được quyền thừa kế di sản

không? Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp

luật hoặc có nhưng không có quyền hưởng di sản, từ chối hưởng di sản, từ

chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà

không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước. Nhưng pháp luật nào thì

không có bất cứ điều khoản nào quy định về vấn đề này.

Đối với người nhận di sản được thừa kế theo di chúc, pháp luật thừa kế

Lào quy định “Việc nhận thừa kế sẽ lập lên trong vòng 6 tháng bắt đầu từ

ngày mở di chúc. Trong trường hợp một người nào đó không nhận di chúc ấy

nhưng đã chuyển cho người khác nhận thay mặt trong thời gian 3 tháng ngoài

ra có các lý do khác”. Như vậy, pháp luật chỉ cho phép người được nhận di

sản thừa kế trong thời hạn là 6 tháng kể từ ngày mở di chúc, tức là từ ngày

người để lại di sản chết hoặc từ ngày mà trong di chúc nói rõ thời điểm mở di

chúc. Qúa thời hạn 6 tháng nói trên, nếu không đưa ra được các lý do chính

đáng thì người đó sẽ đương nhiên mất quyền thừa kế và phần di sản đó xử lý

theo quy định pháp luật. Nếu người được thừa kế không đến nhận phần di sản

của mình mà ủy quyền cho người khác nhận thay (có thể là người cùng thừa

kế hoặc người không được thừa kế) thì luật chỉ cho phép thời hạn là 3 tháng

mà không phải là 6 tháng như khi đích thân đến nhận. Quy định như vậy

nhằm hạn chế sự giả dối trong vấn đề ủy quyền. Và nếu quá 3 tháng mà người

nhận thay không đến nhận và không có lý do chính đáng khác thì đương nhiên

được xử lý như trường hợp quá 6 tháng. Và phần di sản không đến nhận đó

của người thừa kế sẽ được xử lý như sau:

“Trước khi có sự phân chia tài sản nhưng người nhận tài sản không

đi nhận trong vòng 3 tháng. Sau đó các tài sản ấy có người khác đi nhận

thay hay là chuyển cho nhà nước. Trong trường hợp này nếu mà người đó



33



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

×