Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.48 KB, 85 trang )
tắc bảo đảm quyền của người lập di chúc theo Điều 24 “Nhân dân của nước
Cộng hòa dân chủ nhân Lào có quyền tặng, chuyển và lập di chúc cho một
người hay là nhiều người và cho các cơ quan tổ chức đã có thẩm quyền liên
quan...”. Tự nguyện được xem là việc thực hiện một việc theo ý của mình, do
mình muốn, không phụ thuộc vào bất cứ một chủ thể khác. Về bản chất, tự
nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của
họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan,
mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình thức thể hiện ra bên
ngoài sự mong muốn đó. Vì vậy, việc phá vỡ sự thống nhất đó chính là đã làm
mất đi tính tự nguyện của người lập di chúc. Tuy nhiên, sự thống nhất đó sẽ
dễ dàng bị phá vỡ khi có sự lừa đối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Sự lừa dối này
thường thể hiện ở hành vi đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm
tác động ý chí của người lập di chúc (lừa dối mình là con của người lập di
chúc để được hưởng thừa kế theo di chúc, làm tài liệu giả để cho người có tài
sản tin rằng một người đã chết hoặc đã mất tích nên không lập di chúc để lại
di sản cho người đó mà để lại cho người làm tài liệu giả…). Sự đe doạ hoặc
cưỡng ép có thể là về mặt tinh thần (dọa thực hiện hành vi làm mất danh dự,
uy tín của người lập di chúc, đem tính mạng người thân của người lập di chúc
ra uy hiếp…) hoặc về mặt thể chất như (đánh đập, giam cầm, hành hạ…). Vì
thế, điều kiện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó đảm bảo cho việc thể
hiện ý chí của người lập di chúc đúng với ước muốn của chính họ.
Hình thức di chúc phải tuân thủ các quy định của pháp luật, hình thức
của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc (nội dung
của di chúc) là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là
chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy,
di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định. Điều 26 Luật thừa kế
năm 2008 của Lào quy định “Quan điểm lập di chúc nước Cộng hòa dân chủ
23
nhân Lào. Di chúc có thể lập bằng hai cách khác nhau như sau đây: Lập di
chúc bằng văn bản, lập di chúc bằng miệng”. Đây là hai hình thức phổ biến
mà pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều thừa nhận.
Hình thức di chúc bằng văn bản: Là loại di chúc được thể hiện dưới
dạng chữ viết (viết tay, đánh máy rồi in ra) phải có công chứng của cơ quan
có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 27 Luật thừa kế năm 2008 của Lào thì
di chúc bằng văn bản phải do chủ tài sản viết, trong trường hợp do tình hình
sức khỏe không thể tự viết được mà nhờ người khác viết thì phải có ba người
làm chứng. Trong di chúc phải có đầy đủ các nội dung về địa điểm, ngày,
tháng, năm, loại di chúc. Về thừa kế tài sản phải nói rõ là để lại tài sản cho ai,
họ tên gì và họ có quan hệ thế nào với chủ tài sản. Trong trường hợp viết
thay, có người làm chứng thì phải nói rõ người thừa kế có quan hệ thế nào với
người viết, người làm chứng. Di chúc phải có đầy đủ chữ ký là chủ tài sản,
người viết thay, người làm chứng. Di chúc phải được bảo vệ để không bị rách
nát, mất mát, sửa chữa.
Di chúc bằng miệng: Là hình thức di chúc được thể hiện bằng lời nói.
Di chúc bằng miệng khác với di chúc bằng văn bản, di chúc miệng là sự bày
tỏ bằng lời nói của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định
đoạt khối tài sản của mình cho người khác trước khi chết. Đây là hình thức di
chúc khó để lại bằng chứng khi tranh chấp xảy ra mặc dù có người làm
chứng. Vì vậy, pháp luật chỉ thừa nhận di chúc miệng có giá trị trong một số
trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 28 Luật thừa kế năm 2008, đó là:
Thứ nhất, trong trường hợp người chủ tài sản không thể lập di chúc
bằng văn bản như sắp chết, sức khỏe yếu và các lý do bất khả kháng khác thì
chủ sở hữu tài sản có thể lập di chúc bằng miệng.
Thứ hai, chủ tài sản phải thể hiện ý chí của mình trước mặt người làm
chứng, ít nhất là ba người và ngay sau đó những người làm chứng phải thông
24
báo cho các cơ quan tổ chức làng, bản biết về những gì người đó trước khi
chết đã nói, đồng thời nêu rõ cho cơ quan, làng, bản biết lý do chủ tài sản
không thể lập di chúc bằng văn bản.
Thứ ba, di chúc miệng chỉ tồn tại trong vòng một tháng nếu sau đó chủ tài
sản không chết nữa mà tỉnh táo, bình thường lại thì di chúc miệng sẽ bị xóa bỏ.
Nhìn chung, pháp luật thừa kế của Lào quy định về hình thức văn bản
có một vài điểm khác so với quy định với các nước, đặc biệt là Việt Nam.
Theo Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam thì “di chúc bằng văn bản có thể
có hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước” [23, Đ648]. Về di chúc
miệng thì quy định người làm chứng chỉ cần hai người mà không phải ba
người như ở Lào. Việc ghi chép lại lời của người chủ tài sản là do người làm
chứng viết chứ không như ở Lào người làm chứng chỉ có nghĩa vụ báo với cơ
quan tổ chức làng bản để những cơ quan tổ chức này viết ra. Thời gian có
hiệu lực di chúc miệng ở Lào cũng quy định thời gian ngắn so với Việt Nam
(pháp luật thừa kế nước Lào quy định một tháng, pháp luật thừa kế Việt Nam
quy định ba tháng) [23, Đ651].
Nội dung di chúc: Nội dung di chúc là mặt “bên trong” của di chúc. Nó
thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho
những người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định người thừa kế, giao nghĩa vụ
cho người thừa kế, phân định di sản thừa kế, đưa ra các điều kiện để chia di
sản thừa kế. Cũng như pháp luật Việt Nam, Luật thừa kế năm 2008 của Lào
quy định nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Quy định
này thể hiện sự tự do ý chí của người lập di chúc là tự do có giới hạn, tự do
trong khuôn khổ pháp luật. Trong đó, ý chí của người lập di chúc phải tương
đồng với ý chí của Nhà nước đã được quy định trong các văn bản pháp luật.
Ngoài ra, ý chí đó còn phải phù hợp với đạo đức xã hội. Đó là những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
25
Nếu như Việt Nam quy định vợ chồng có thể lập di chúc chung để định
đoạt di sản chung của mình [23, Đ664] thì pháp luật Lào không quy định vợ
chồng có quyền được lập di chúc để định đoạt di sản. Như vậy, nếu vợ chồng
lập di chúc chung thì di chúc này không được xem là hợp pháp.
Mặt khác, pháp luật thừa kế Lào quy định một di chúc được xem là
hợp pháp nếu như di chúc đó được công chứng, chứng thực mà không có
trường hợp nào là ngoại lệ, khác với pháp luật Việt Nam quy định có những
trường hợp di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực nhưng
lại có hiệu lực giống như di chúc có công chứng, chứng thực đó là các
trường hợp nguy cấp quá như: “Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận
của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu
cầu công chứng hoặc chứng thực; di chúc của người đang đi trên tàu biển,
máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; di chúc của người
đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận
của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó; di chúc của người đang làm công
việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của
người phụ trách đơn vị; di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài
có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước
đó; di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người
đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó”[23; Ð660].
Như vậy, so với pháp luật Lào thì quy định này của pháp luật Việt Nam
hợp lý hơn, nó đảm bảo cho người lập di chúc thực hiện được quyền định đoạt
tài sản của mình trong những trường hợp nguy cấp nhất nhằm để lại tài sản
của mình cho những người mà họ mong muốn được hưởng.
2.2. Ngƣời lập di chúc và quyền của ngƣời lập di chúc
Người lập di chúc là cá nhân mà thông qua việc lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình cho những người khác sau khi chết với ý hoàn toàn tự
26
nguyện. Mặc dù pháp luật thừa kế Lào không có một điều khoản cụ thể nào
quy định về người lập di chúc, nhưng dựa trên cơ sở Điều 24 quy định về
quyền của người tặng, chuyển và lập di chúc và Điều 35 về điều kiện để
một di chúc có hiệu lực pháp luật. Người lập di chúc phải đảm bảo các điều
kiện sau đây:
Thứ nhất, người lập di chúc phải là cá nhân có tài sản thuộc sở hữu của
mình; cơ quan, tổ chức không có quyền lập di chúc.
Thứ hai, người lập di chúc phải là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở
lên) không mắc bệnh tâm thần, hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận
thức hoặc làm chủ hành vi của mình. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương
thể hiện ý chí của cá nhân. Vì thế, khi lập di chúc cá nhân đó phải là người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Họ là người đã thành niên từ đủ mười tám
tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức
hoặc làm chủ được hành vi của mình.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi lập di chúc
người lập di chúc thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình, tài sản này sẽ
được chuyển giao cho người khác sau khi họ chết, để đảm bảo chắc chắn rằng
đây là ý nguyện thực sự của người lập di chúc, pháp luật quy định họ phải là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Khi cá nhân lập di chúc để lại tài sản của mình cho người khác chính là
người đó đang thực hiện quyền định đoạt của mình đối với tài sản. Pháp luật
quy định người lập di chúc có các quyền sau đây:
Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất kì cá nhân, cơ quan, tổ
chức nào. Người nhận di sản có thể là cá nhân thuộc diện thừa kế hoặc không
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chết hoặc cũng có thể là tổ chức
27
kinh tế, cơ quan Nhà nước. Pháp luật cho phép người để lại di sản có quyền
để lại tài sản cho ai theo ý chí của mình, có quyền truất quyền thừa kế di sản
của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Phân định di sản thừa kế cho từng người thừa kế.
Nếu như thừa kế theo pháp luật thì mỗi người cùng hàng thừa kế đều
được hưởng phần bằng nhau, thì thừa kế theo di chúc phụ thuộc vào ý chí của
người lập di chúc. Nếu như pháp luật Việt Nam quy định người lập di chúc
toàn quyền trong việc định đoạt tài sản của mình, thì pháp luật Lào quy định
quyền định đoạt của người lập di chúc bị giới hạn, nghĩa là có quyền định đoạt
nhưng phải tuân thủ theo luật định. Ví dụ như để bảo vệ lợi ích của một số
người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục
tập quán, truyền thống từ xưa của cha ông dân tộc Lào, pháp luật Lào đã hạn
chế quyền lập di chúc được thể hiện tại Điều 25 Luật thừa kế năm 2008 như
sau: Chủ tài sản chỉ được lập di chúc để lại không quá ½ tài sản thuộc sở hữu
của mình cho người con (trong trường hợp chỉ có một đứa con). Nếu trong di
chúc để lại quá phần pháp luật quy định trên thì người con đó cũng chỉ được
hưởng đến ½ mà thôi, phần còn lại ½ sẽ đem chia theo pháp luật cho những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất như vợ/chồng, cha mẹ, ông bà nội ngoại...
Chủ tài sản chỉ được lập di chúc để lại không quá 1/3 tài sản của mình
cho một người con (trường hợp họ có hai con). Nếu di chúc thể hiện phần di
sản để lại quá 1/3 cho một người con thừa kế thì phần vượt quá cũng đem chia
theo pháp luật như đã nói ở trên. Ở đây cần lưu ý, pháp luật quy định để lại
không quá 1/3 di sản cho một người, một 1/3 khác cho thêm một người con
nữa và còn 1/3 còn lại sẽ đem chia cho những người khác.
Trong trường hợp người đó có ba đứa con trở lên thì phần để lại di sản
cũng không được quá ¼. Cũng giống như quy định ở trên, mỗi con chỉ được
hưởng không quá ¼ phần tài sản của người chết để lại, không được hưởng
phần của mình vượt quy định.
28
Như vậy, pháp luật không cho phép người lập di chúc tự ý để lại tất cả
tài sản cho một người con nếu người đó có từ hai con trở lên, hay để lại phần
tài sản vượt quá quy định pháp luật. Đây là sự khác biệt giữa pháp luật Lào so
với luật pháp Việt Nam khi hạn chế phần tài sản để lại cho các con. Đó cũng
là nét văn hóa của dân tộc Lào nhằm đảm bảo quyền lợi ngang nhau giữa các
con trong cùng một gia đình, để các con cùng có chung một nghĩa vụ đối với
người đã khuất, tránh tình trạng do thừa kế giữa các con mất sự bình đẳng sẽ
gây ra “những cuộc chiến” giữa các thành viên trong gia đình.
Mặc dù pháp luật thừa kế Lào đảm bảo cho người lập di chúc có quyền
để lại tài sản của mình cho bất cứ ai. Nhưng bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn
chế một số điều nhằm đảm bảo giữ gìn truyền thống văn hóa, đạo đức của dân
tộc. Như vậy, so với pháp luật Việt Nam thì quyền định đoạt của người lập di
chúc bị hạn chế rất nhiều. Vì trong luật dân sự Việt Nam không quy định việc
giới hạn quyền lập di chúc. Việc để lại di sản cho người con nào là tùy ý chí
của chủ tài sản.
Thay đổi hoặc xóa bỏ di chúc đã lập.
Theo quy định tại Điều 35 Luật thừa kế năm 2008 thì:
“Chủ tài sản có quyền thay đổi hay là xóa bỏ di chúc của mình đã lập
trong mỗi thời gian và có thể lập di chúc mới. Di chúc mới này sẽ bị xóa bỏ di chúc
cũ một phần nào đó hay là tất cả do nó sẽ không hợp với di chúc mới lập lên”.
Thay đổi di chúc là việc người để lại di sản lập di chúc thay thế cho di
chúc cũ. Trong trường hợp di chúc thay thế có nội dung phủ định di chúc đã
lập thì di chúc thay thế có hiệu lực pháp luật còn di chúc bị thay thế không
phát sinh hiệu lực.
Xóa bỏ di chúc là việc người lập di chúc từ bỏ một phần hoặc toàn bộ
di chúc của mình bằng cách không công nhận một phần hoặc toàn bộ di chúc
đã lập có giá trị pháp lý. Việc xóa bỏ di chúc bằng hình thức tiêu hủy các di
29
chúc đã lập, lập văn bản tuyên bố xóa bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc.
Khác với pháp luật Việt Nam, xóa bỏ di chúc trong pháp luật thừa kế Lào
được hiểu theo hai nghĩa, có thể là xóa bỏ một phần (Việt Nam gọi là sửa đổi)
cũng có thể là xóa bỏ toàn bộ (Việt Nam gọi là hủy bỏ).
Tổ chức người thực hiện di chúc.
Nếu như pháp luật Việt Nam gọi là người quản lý di sản, phân chia di
sản thì pháp luật Lào gọi là tổ chức người thực hiện di chúc. Việc tổ chức
người thực hiện di chúc này có thể do chủ tài sản (người lập di chúc), một
người nào đó đã có quy định rõ trong di chúc hay là một người nào đó đã có
quyền thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp chủ tài sản không được tổ chức
về việc này hay là người đã tổ chức đã chết, mất tích thì việc tổ chức người
thực hiện di chúc do Tòa án nhân dân tuyên bố quy định [18, Đ36]. Bên cạnh
đó pháp luật thừa kế Lào cũng quy định chủ tài sản có quyền tổ chức một
người nào đó để bảo vệ di chúc của mình trong trường hợp chủ tài sản có mục
đích muốn lập di chúc cho người chưa thành niên hay cho người đã mất năng
hành vi dân sự. Người bảo vệ tài sản có thể tổ chức cho người khác để thay
mặt gửi những tài sản đó trừ trường hợp chủ tài sản đã lập trong di chúc khác.
Quyền của người bảo vệ tài sản sẽ hết hạn trong khi người đó đã thành niên
hay là người đã mất năng lực hanh vi dân sự trở lại bình thường.
Dành một phần di sản để thờ cúng.
Pháp luật quy định về thừa kế cho người lập di chúc có quyền dành
phần di sản để “làm chỗ thờ cúng anh chị em và những người khác” [18,
Đ24]. Đây là một phong tục tập quán có từ lâu đời và hiện nay vẫn được coi
trọng. Việc thờ cúng tổ tiên được thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang
tính chất đạo đức và văn hóa, tôn trọng và biết ơn công sinh thành, dưỡng
dục, con người có cội nguồn, tổ tông cho nên con cháu phải tôn trọng và biết
ơn những thế hệ trước. Trong việc thờ cúng, di sản thờ cúng có một ý nghĩa
30
hết sức quan trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà còn giá trị về
mặt tinh thần. Đây là nét khác biệt so với pháp luật của các nước phương Tây
vốn xa lạ với việc thờ cúng tổ tiên.
Có thể nói pháp luật quy định về quyền của người lập di chúc có ý
nghĩa hết sức quan trọng về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn. Các quy định này
gắn chặt với đạo đức, phong tục tập quán của dân tộc Lào trong mối quan hệ
ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau, góp giữ gìn và phát huy
những phong tục tập quán ấy trong đời sống xã hội là một đảm bảo quan
trọng để các quy định về thừa kế theo di chúc đi vào thực tế cuộc sống.
2.3. Ngƣời thừa kế theo di chúc và ngƣời thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc
Người thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người
có di sản nên phạm vi của người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc rộng
hơn nhiều so với người được hưởng di sản theo pháp luật. Theo quy định tại
Điều 24 Luật thừa kế năm 2008 thì người thừa kế theo di chúc có thể là cá
nhân hoặc tổ chức.
Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân bất kỳ, nếu được chỉ định
trong di chúc mà không cần xét đến quan hệ khác của họ đối với người để lại
di sản. Người thừa kế theo di chúc có thể là người thuộc diện thừa kế theo
pháp luật của người để lại di sản hoặc không thuộc diện thừa kế theo pháp
luật của người để lại di sản. Pháp luật không quy định phạm vi những người
được hưởng thừa kế theo di chúc mà việc hưởng di sản của người chết theo di
chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt
tài sản của họ để lại cho những người thừa kế. Phần di sản mà mỗi người
được hưởng theo di chúc có thể bằng nhau, nhiều hơn hoặc ít hơn. Điều này
tùy thuộc vào việc phân định tài sản của người lập di chúc. Người được
hưởng thừa kế theo di chúc phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
31
Đối với người thừa kế là cá nhân thì phải còn sống vào thời điểm mở
thừa kế hoặc khi đứa trẻ đang được người mẹ mang thai: “Con đang mang
thai có quyền hưởng tài sản của người chết như nhau, phần này là cho mẹ là
người quản lý những tài sản đó” [18, Đ16]. Pháp luật chỉ quy định con đang
mang thai mà không có quy định cụ thể tại thời điểm mở thừa kế người con
đó có được sinh ra và còn sống không. Đây cũng là điểm khác biệt với pháp
luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam quy định đối với cá nhân thì cá nhân phải
còn sống vào thời điểm mở thừa kế, còn đối với đứa trẻ mà bà mẹ đang mang
thai chỉ được hưởng thừa kế khi sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa
kế. Chính vì sự quy định không chặt chẽ này mà pháp luật Lào làm phát sinh
rất nhiều mâu thuẫn trong các gia đình khi giải quyết tài sản của đứa con mà
người mẹ mang thai sinh ra và chết thì tại sản này thuộc về ai?
Đối với cơ quan, tổ chức pháp luật cũng quy định cơ quan vẫn được
hưởng thừa kế theo di chúc, nhưng không nói rõ cơ quan này có phải tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế hay không. Theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam, các pháp nhân cùng loại có thể bị chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất, chia,
tách. Nhưng trong những trường hợp này, pháp nhân không chấm dứt tuyệt đối
mà quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho các pháp nhân khác. Hoặc
pháp nhân cũng có thể bị chấm dứt theo quy định về giải thể hoặc phá sản. Khi
này pháp nhân chấm dứt “tuyệt đối”. Sau khi pháp nhân chấm dứt, một thời
gian sau mới phát sinh vụ việc tranh chấp thừa kế mà pháp nhân đó được chỉ
định là người thừa kế và tại thời điểm mở thừa kế pháp nhân chưa bị giải thể
hoặc phá sản thì ai, cơ quan nào sẽ thay mặt pháp nhân để nhận di sản hay khi
này tài sản được coi là tài sản vô chủ và thuộc về Nhà nước?
Mặt khác, theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, pháp nhân đã
bị giải thể, bị tuyên bố phá sản có thể được thành lập lại theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy, trường hợp pháp nhân đó bị giải thể,
32
bị tuyên bố phá sản trước thời điểm mở thừa kế, nhưng sau thời điểm mở thừa
kế lại được thành lập lại thì pháp nhân đó có được quyền thừa kế di sản
không? Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp
luật hoặc có nhưng không có quyền hưởng di sản, từ chối hưởng di sản, từ
chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà
không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước. Nhưng pháp luật nào thì
không có bất cứ điều khoản nào quy định về vấn đề này.
Đối với người nhận di sản được thừa kế theo di chúc, pháp luật thừa kế
Lào quy định “Việc nhận thừa kế sẽ lập lên trong vòng 6 tháng bắt đầu từ
ngày mở di chúc. Trong trường hợp một người nào đó không nhận di chúc ấy
nhưng đã chuyển cho người khác nhận thay mặt trong thời gian 3 tháng ngoài
ra có các lý do khác”. Như vậy, pháp luật chỉ cho phép người được nhận di
sản thừa kế trong thời hạn là 6 tháng kể từ ngày mở di chúc, tức là từ ngày
người để lại di sản chết hoặc từ ngày mà trong di chúc nói rõ thời điểm mở di
chúc. Qúa thời hạn 6 tháng nói trên, nếu không đưa ra được các lý do chính
đáng thì người đó sẽ đương nhiên mất quyền thừa kế và phần di sản đó xử lý
theo quy định pháp luật. Nếu người được thừa kế không đến nhận phần di sản
của mình mà ủy quyền cho người khác nhận thay (có thể là người cùng thừa
kế hoặc người không được thừa kế) thì luật chỉ cho phép thời hạn là 3 tháng
mà không phải là 6 tháng như khi đích thân đến nhận. Quy định như vậy
nhằm hạn chế sự giả dối trong vấn đề ủy quyền. Và nếu quá 3 tháng mà người
nhận thay không đến nhận và không có lý do chính đáng khác thì đương nhiên
được xử lý như trường hợp quá 6 tháng. Và phần di sản không đến nhận đó
của người thừa kế sẽ được xử lý như sau:
“Trước khi có sự phân chia tài sản nhưng người nhận tài sản không
đi nhận trong vòng 3 tháng. Sau đó các tài sản ấy có người khác đi nhận
thay hay là chuyển cho nhà nước. Trong trường hợp này nếu mà người đó
33