Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.48 KB, 85 trang )
thực tiễn áp dụng đã có những quan điểm khác nhau trong xác định quy phạm
để giải quyết tranh chấp. Vụ án sau đây là một ví dụ minh họa:
Anh Som Phat Xay Pan Nha và cô SouPhanSa XayPanNha đã kết hôn
hợp pháp với nhau trong ngày 01/12/2000 tại bản Som My Xay, huyện Xay
Tha Ny tỉnh Viêng Chăn. Trong cuộc sống với nhau giữa các anh chị rất hạnh
phúc hai vợ chồng tạo ra một ngôi nhà và một lô đất khoảng 120m2, một chiếc
xe TOYOTA VIGO và hai chiếc xe máy loại 4 số (MiO) và sinh được 2 đứa
con trai và một đứa con gái như: Thằng Sai là 9 tuổi, thằng Boy là 8 tuổi và
bé Thong là 5 tuổi (tất cả là học sinh).
Đến năm 2009, anh Som Phat đã phát hiện được là bị bệnh gan theo
giấy khám của bệnh viện thủ đô Viêng Chăn ngày 04/6/2009, đến cuối năm
2009 anh Som Phat không thể đi lao động được do bệnh của ông càng ngày
càng bị nặng nề. Cho nên hai vợ chồng đã thỏa thuận với nhau về các con và
tài sản của mình đã có.
Đến ngày 01/01/2010, anh Som Phat và chị Sou Pan Sa hai vợ chồng
đã lập di chúc cho các con, theo bản của di chúc đã viết như sâu đây.
Hôm nay, ngày 01/01/2010 chúng tôi hai vợ chồng minh mẫn đã lập di
chúc cho các con theo nội dung như sâu đây.
1./ Nhà ở là cho con gái tên là cô Thong
2./ Một chiếc xê TOYOTA VIGO và một số tiền trong ngân hàng
Thương Mại 50.000.000 kip là cho con trai thứ hai tên là cậu Sai
3./ Còn số tiền trong ngân hàng Thương Mại là 60.000.000 kip và 2
chiếc xe máy là cho con thứ ba như cậu Boy.
Bản di chúc ấy đã đầy đủ và hợp pháp hết.
Đến ngày 02/3/2011, anh Som Phat đã chết chị Sou Pan Sa và các con
lo việc mai táng của anh Som Phat. Đến ngày 04/7/2011 do chị Sou Pan Sa ở
một mình với các con khi đau ốm thì không có ai chăm sóc và không có ai là
54
người đứng đầu trong gia đình cho nên chị ấy đã bắt đầu chơi bời, đánh bài...
làm cho đồ đạc ở trong nhà và các số tiền ở trong ngân hàng cũng hết.
Đến ngày 21/02/2012, hai ông bà như là ông MAY và bà NOY là bố
mẹ của anh Som Phat (bố mẹ của người chết) đã viết đơn khởi kiện lên Tòa
án huyện Xay Tha Ny để đòi lấy các tài sản ấy cho các cháu nhỏ đang học
tập. Sau khi Tòa án huyện đã nhận đơn rồi thì trong vòng 3 ngày đã mời chị
Sou Phan Sa lên để lấy lời khai.
Theo lời khai của cô đã nói rằng tất cả các tài sản ấy là do hai vợ chồng
của mình tạo ra và chúng tôi đã thỏa thuận nhau lập di chúc cho các con hết
rồi, còn người khác không có chuyện gì để đòi mặc dù tôi chơi cũng là
chuyện của tôi nhưng con của tôi vẫn là đi học ăn no hạnh phúc như là người
khác. Cho nên Tòa án huyện Xay Tha Ny đã căn cứ vào lời nói của chị
SouPhanSa thì đúng hết, còn đơn khởi kiện của hai ông bà thì không đủ lý do
để xử vụ án này.
Đến ngày 04/5/2012 hai ông bà ấy đã viết đơn khởi kiện lên Tòa án lần
thứ hai nhưng Tòa án cũng không giải thích được có các lý do như sau:
1./ Không đủ người làm chứng để xét xử vụ án này.
2./ Do người chết không có tài sản riêng của mình cho nên các tài sản
ấy là toàn bộ tài sản chung.
3./ Các tài sản ấy là không cho ai được hưởng nữa do hai vợ chồng
mình đã lập di chúc cho các con hết rồi.
Cho nên Tòa án không thể giải quyết được và đến nay cũng không thể
giải quyết được.
Tuy nhiên, cách giải quyết của Tòa án đã không thể đem lại sự thuyết
phục cho bên nguyên đơn. Nên sau đó ông May bà Noy đã làm đơn khiếu nại
lên Tòa án nhân dân tỉnh nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết. Bởi lẽ theo
Điều 15 Luật thừa kế Lào năm 2008 thì khi bố mẹ của anh Som Phat chết mà
55
đã để lại di chúc thì di sản là đất đai đó phải được đem chia theo pháp luật, có
tính công chăm sóc bố mẹ của anh Som Phat, như vậy Sou PhaSa vẫn có một
phần tài sản trong khối di sản là đất đai đó. Nên việc làm đơn đòi lại phần tài
sản mình là đúng. Tuy nhiên, đáng lẽ phải làm đơn khởi kiện từ khi anh Som
Phat còn sống. Trong khi lúc này anh ấy đã chết thì Tòa án huyện Xay ThaNy
lại suy luận di sản anh ấy để lại là tài sản chung của vợ chồng nên chị
SouPhaSa vẫn có quyền hưởng.
Qua một vài vụ án xảy ra trên thực tiễn để thấy rằng thừa kế luôn là vấn
đề phức tạp thường xảy ra tranh chấp. Theo thống kê vụ án về thừa kế hàng
năm của Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn từ năm 2009 2011 thì có 640 vụ án, trong đó có 451 vụ đã đưa ra xét xử xong, số vụ án còn
tồn đọng là 209 vụ.
Theo số liệu thống kê mới nhất của Tòa án nhân dân huyện Xay Tha
Ny thì số vụ án thừa kế từ 2002 đến 2011 được thể hiện như sau:
Giai đoạn
Số vụ án
Đã xét xử
Xét xử chƣa xong
2002 -2003
12
11
01 vụ
2003-2004
10
10
2004-2005
14
14
2005-2006
17
15
2006-2007
10
10
2007-2008
14
14
2008-2009
12
12
2009-2010
20
20
2010-2011
14
14
02 vụ
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của Tòa án nhân dân huyện Xay Tha Ny)
Qua thống kê trên cho thấy công tác xét xử tại huyện Xay Tha Ny diễn
ra tương đối nhanh dẫn đến án về thừa kế không còn tồn động. Bên cạnh đó
56
có một số huyện như huyện MahaXay số vụ án cũng xảy ra tương đối nhiều
nhưng chưa đem ra xét xử hết, án còn đọng lại nhiều phải chuyển qua năm
tiếp theo dẫn đến sự chồng chéo về số vụ án thừa kế, điều này cho thấy khó
khăn trong việc xét xử và cũng chứng tỏ rằng pháp luật về thừa kế còn nhiều
bất cập, hạn chế khiến việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn giải
quyết tranh chấp khó thực thi, từ đó gây hậu quả cho việc hưởng thừa kế trong
trường hợp di sản thừa kế có thể bị mất mát hoặc là bị tiêu hủy do nguyên
nhân khách quan và chủ quan.
Qua vụ án cụ thể và một vài số liệu nói trên cho thấy mặc dù các vụ án
tranh chấp về thừa kế theo di chúc không nhiều, nhưng do các quy định thiếu
thống nhất nên quá trình áp dụng giải quyết thừa kế theo di chúc còn gặp
những vướng mắc cụ thể sau:
3.1.1. Nhận thức về di chúc hợp pháp
Khi chia thừa kế theo di chúc điều kiện quan trọng cần phải xác định
đầu tiên là kiểm tra tính hợp pháp của di chúc. Về cơ bản pháp luật thừa kế
Lào đã quy định cụ thể một di chúc thỏa mãn những điều kiện nào thì được
xem là hợp pháp. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định, cũng như nhận thức
về vấn đề này đôi khi rất khó khăn, gây nhiều tranh cải. Sở dĩ tồn tại trình
trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau một phần do quy định của pháp
luật chưa thật sự chính xác, một phần do trình độ nhận thức của người dân.
Nhận thức về di chúc hợp pháp của đại đa số người dân Lào còn hạn
chế. Do quan điểm truyền thống từ khi khai sinh tài sản đã hình thành nên nếp
sống và lối suy nghĩ đơn giản là muốn cho ai, và tự mình quyết định mà
không cần đến sự xác nhận, chứng kiến của cơ quan nhà nước nên cũng xuất
hiện không ít di chúc sau khi mở thừa kế không đúng hình thức cũng như
không đúng theo quy định của pháp luật. Ví dụ như người dưới 18 không
được lập di chúc nhưng trên thực tế tình trạng này vẫn xảy ra, hoặc phổ biến
57
nhất là trường hợp người dân lập di chúc nhưng không có công chứng, chứng
thực mà theo quy định Luật thừa kế Lào thì đây là một trong những điều kiện
để xem xét tính hợp pháp của di chúc.
Đối với di chúc bằng văn bản do người khác viết, một trong những điều
kiện để xác định tính hợp pháp của di chúc là phải có ba người làm chứng, ba
người này phải giữ bí mật cho đến lúc mở thừa kế. Nhưng người làm chứng
không thực hiện lời hứa bí mật đến dây phút cuối cùng mở thừa kế thì hậu quả
sẽ giải quyết như thế nào. Di chúc đó có tiếp tục có hiệu lực hay bị hủy bỏ
chưa được cụ thể hóa, rất khó xác định. Khi giải quyết vấn đề này còn có
nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng mặc dù nó không đảm
bảo tính bí mật nhưng đây là do điều kiện khách quan, còn xét về mặt chủ
quan thì đây là ý chí của người chủ tài sản và thỏa mãn các điều kiện như
được công chứng, chứng thực và đã có ba người làm chứng cho nên di chúc
này là hợp pháp. Có Tòa án thì cho rằng mặc dù di chúc thỏa mãn các điều
kiện luật định nhưng nó không đảm bảo tính bí mật nên không hợp pháp. Như
vậy, cùng một vấn đề nhưng mỗi Tòa án có một quan điểm, một cách nhìn
nhận khác nhau nên khi giải quyết chưa đảm bảo tính thống nhất, đôi khi còn
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người áp dụng pháp luật. Vì vậy, trong một
số trường hợp ý chí của chủ tài sản chưa được thực hiện, hạn chế tính khả thi
của hình thức thừa kế theo di chúc.
Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ tài sản vẫn lập di chúc nhưng
không phải thể hiện ý chí của chủ tài sản mà do bị gượng ép hay bất kỳ một lý
do khác mà thực chất đó không phải là ý chí chủ quan của người lập di chúc.
Nhưng do người cưỡng ép đã có ý đồ từ trước nên di chúc này xét về mặt
hình thức thì đảm bảo các điều kiện luật định như có người làm chứng, được
công chứng, chứng thực. Mặc dù có nghi ngờ là bị cưỡng ép nhưng trên thực
58
tế rất khó xác định được vì người lập di chúc đã mất nên không có người đối
chất. Tính hợp pháp của di chúc xét dưới góc độ ý chí của người chủ tài sản
trong một số trường hợp rất khó xác định.
3.1.2. Vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để xác định di chúc
hợp pháp
Mặc dù điều kiện để một di chúc có hiệu lực pháp luật được quy định
trong luật nhưng trên thực tế khi xác định tính hợp pháp của di chúc cũng là
một vấn đề đáng để suy ngẫm.
Theo quy định của pháp luật Lào về thừa kế theo di chúc có sự giới hạn
quyền tặng, chuyển và việc lập di chúc. Cụ thể, tại Điều 25 quy định:
“Nếu chủ tài sản muốn tặng, chuyển và lập di chúc cho một hay là
nhiều nhiều có thể thực hiện như sau đây:
1. Nếu chủ tài sản có một người con thì người lập di chúc không cho
vượt quá 1/2 của tất cả tài sản đã có.
2. Nếu chủ tài sản có hai người con thì người lập di chúc không cho
vượt quá 1/3 của tất cả những tài sản đã có.
3. Nếu chủ tài sản có ba người con trở lên thì người lập di chúc không
cho vượt quá 1/4 của tất cả tài sản đã có”.
Việc tặng, chuyển và lập di chúc đã vượt quá những trường hợp nêu
trên tài sản đã vượt quá ấy sẽ đưa ra chia sẻ cho những người thừa kế theo
pháp luật.
Những quy định này phần nào chưa thể hiện được tính tự quyết của
người để lại di chúc, chưa thể hiện rõ nét được tính dân chủ của công dân theo
quy định của pháp luật. Vì nếu người để lại di sản viết di chúc muốn để lại
cho một người nào đó duy nhất thì vẫn không được thỏa mãn nguyện vọng
của họ vì pháp luật quy định tùy vào con người để lại di chúc mà được phép
lập di chúc theo số phần tương ứng cho người thụ hưởng theo quy định của
59
pháp luật. Vì vậy, khi chia di sản thừa kế theo di chúc, muốn xác định tính
hợp pháp của di chúc thì Tòa án phải điều tra xác minh xem chủ tài sản có
đảm bảo điều kiện mà luật đã quy định hay không? Nếu người lập di chúc lập
cho người được chỉ định người thừa kế hưởng quá phần di sản mà luật định
thì phần này phải chia theo pháp luật. Quy định này vừa hạn chế ý chí của chủ
tài sản, vừa làm mất thời gian, công sức của Tòa án trong quá trình xác minh
tính hợp pháp của di chúc.
Bên cạnh đó quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế
theo di chúc của Luật thừa kế năm 2008 của Lào còn bất cập, gây nhiều khó
khăn vướng mắc cho người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc. Cụ thể, tại
Điều 40 Luật thừa kế năm 2008 của Lào quy định thời gian kiện di chúc:
“Thời gian kiện của di chúc là trong vòng ba năm sau khi người lập di
chúc đã chết, trừ trường hợp người thừa kế chưa đủ mười tám tuổi hay là có
các lý do khác”.
Cách quy định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế như thế này là
quá ngắn vì dân tộc Lào có truyền thống đoàn kết nên khi một người thân của
mình vừa mới mất đi chưa đầy ba năm mà những người còn sống đã tranh
dành tài sản lẫn nhau là không phù hợp với tập quán, văn hóa Lào. Mặt khác,
luật cũng quy định “trừ trường hợp có lý do khác”, vậy lý do khác là lý do gì?
Vấn đề tranh cãi ở đây chúng ta cần nhìn nhận khách quan rằng người quyết
định những lý do khác do cơ quan nào xác định hay chính người hưởng di sản
thừa kế chứng minh rồi sau đó được các cơ quan chức năng thẩm định mới
cho thụ hưởng các quyền lợi chính đáng của mình. Điều này đi ngược lại tính
linh động của vấn đề thừa kế trong luật thừa kế Lào. Khi thực hiện những
công đoạn xác minh này cơ quan chức năng cũng như người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan cũng mất thời gian, tốn kém chi phí.
60
3.1.3. Còn có sự vướng mắc giữa di chúc hợp pháp với hợp đồng
tặng cho
Thông thường việc tặng cho tài sản có hiệu lực từ khi giao tài sản hoặc
từ khi đăng ký chuyển quyền sở hữu ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Còn
di chúc là sự thể hiện ý chí tự nguyện đơn phương của cá nhân lúc còn sống
để định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Trong khi còn sống người lập di
chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ di chúc. Di chúc chỉ có
hiệu lực khi người lập di chúc chết.
Tuy pháp luật đã quy định, song thực tế, các giao dịch dân sự lại rất
phức tạp. Có trường hợp hình thức là di chúc nhưng nội dung lại là tặng, cho
quyền sở hữu khi họ còn sống hoặc ngược lại. Có trường hợp hình thức là
giấy ủy quyền quản lý tài sản nhưng nội dung lại cho cả ba quyền: chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt. Vì vậy, việc đánh giá, xác định bản chất của từng giao
dịch dân sự cụ thể thường rất khó khăn, có trường hợp đã nhầm lẫn giữa cho
quyền sở hữu với di chúc thừa kế, nhầm lẫn phổ biến nhất là giữa tặng cho và
di chúc. Vụ án sau đây là một trường hợp như vậy:
Theo nội dung vụ kiện, do không có đất ở nên năm 1988 bà Say được
UBND huyện Xay Tha Ny, cho mượn đất để làm nhà ở. Năm 1992, vợ chồng
anh Soi, con trai thứ 2 của bà Say xây trên thửa đất này căn nhà cấp 4 để ở.
Năm 1999, vợ chồng anh Soi chuyển đi, bà Say cùng gia đình con cả anh Kay
về ở căn nhà trên cho đến năm 2002 thì xây thêm một căn nhà 2 tầng trên
thửa đất mượn.
Tháng 02/2007, bà Say lập một giấy phân chia nhà đất cho các cháu
nội. Theo đó, cháu Xuc (con anh Kay) được bà cho căn nhà 2 tầng trên diện
tích hơn 34m2; cháu Thong (con anh Soi) được cho căn nhà cấp 4 trên diện
tích khoảng 30m2. Do bà Say không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
nên việc tặng cho này không thể công chứng hợp pháp mà chỉ lập văn bản có
sự làm chứng của luật sư May và ông Hay và bà Son.
61
Sau đó, bà Say đột ngột qua đời và hai căn nhà trên thửa đất do chị Lo
(mẹ cháu Xuc) quản lý, nên chị Phay (mẹ cháu Thong) đem tờ giấy chia nhà
của bà Say đến đòi nhà. Tuy nhiên, chị Lo không chịu nên chị Phay khởi kiện
ra Tòa án.
Vì trong giấy phân chia tài sản chủ tài sản không ghi rõ đó là hợp đồng
tặng cho tài sản hay là di chúc. Do đó, khi giải quyết vụ án này có rất nhiều
quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng tặng
cho tài sản; diện tích đất mà bà Say sử dụng có hai căn nhà được bà chia cho
hai cháu là đất công, do UBND huyện Xay Tha Ny cho mượn sử dụng từ năm
1988. Đối với bản phân chia tài sản cho hai cháu của bà Say là văn bản thể
hiện ý chí, nguyện vọng của bà Say nên dù văn bản này không đúng về hình
thức vẫn công nhận nội dung để chia cho cháu Xuc căn nhà 2 tầng và cháu
Thong căn nhà cấp 4.
Quan điểm thứ hai cho rằng: văn bản phân chia tài sản do bà Say lập
ngày 09/02/2007 không phải là hợp đồng tặng cho tài sản mà là di chúc. Với
lý giải văn bản này thể hiện nguyện vọng của bà Say là cho các cháu tài sản
khi còn sống, nhưng bà đột ngột qua đời thì coi đó là di chúc.
Vậy, giấy phân chia di sản của bà Xay để lại là hợp đồng tặng cho tài
sản hay là di chúc?
Trường hợp trên không thể xác định là hợp đồng tặng cho tài sản vì hợp
đồng tặng cho nhà ở chỉ có hiệu lực khi hợp đồng đó được công chứng, chứng
thực. Mặt khác, tặng cho tài sản là việc chuyển quyền sở hữu ngay tại thời
điểm ký kết, sẽ chấm dứt quyền sở hữu của người tặng cho ngay tại thời điểm
tặng cho. Như vậy, đối chiếu với trường hợp trên ta thấy rằng nếu xác định
tranh chấp hợp đồng tặng cho là không đúng.
Nhưng liệu nó có được xác định là di chúc không? Nếu là di chúc phải
62
có ít nhất ba người làm chứng và phải được công chứng, chứng thực. Đối
chiếu với văn bản phân chia tài sản do bà Say viết ta thấy rằng trong giấy này
có ba người làm chứng đó là luật sư May, ông Hay và bà Son. Chỉ có điều là
trong bản án này không nói rõ giấy phân chia tài sản này có được công chứng,
chứng thực hay không? Nếu thỏa mãn điều kiện này thì giấy phân chia tài sản
này chính là di chúc. Di chúc này hoàn toàn hợp pháp. Do đó, phải tôn trọng ý
chí của người lập di chúc là bà Say.
Hậu quả pháp lý của việc xác định hợp đồng tặng cho tài sản hay là di
chúc hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án chúng ta
phải phân biệt được sự khác nhau giữa tặng cho và di chúc. Mặc dù giữa tặng
cho và di chúc có điểm giống nhau là đều thể hiện ý chí của người có tài sản
chuyển tài sản cho người khác. Tuy nhiên, chúng vẫn có nhiều điểm khác biệt.
Nếu là di chúc thì phải tuân theo chế định về di chúc, nếu là tặng cho
thì áp dụng chế định tặng cho tài sản. Nếu là tặng cho thì khi tặng cho hoàn
thành người tặng cho không được quyền đòi lại tài sản và không thể giao tài
sản cho người khác. Ngược lại, nếu là di chúc thì người có ý muốn định đoạt
có thể thay đổi ý định của mình trước khi chết, trước khi chết người có tài sản
này có quyền thay đổi người được hưởng tài sản, tài sản trong di chúc. Một
văn bản chỉ được xem là di chúc nếu nó thể hiện ý chí của người để lại di sản,
nếu một văn bản có nội dung, hình thức như một di chúc nhưng không thể
hiện ý chí của người chết để lại thì không thể được coi là một di chúc. Ví dụ
ông Say và ông Xúc cho rằng bố của các ông là ông Phay để lại một phần đất
cho ông Say nên hai ông này đòi tài sản do người khác quản lý. Tuy nhiên,
qua điều tra thì cho thấy tờ di chúc này không thể hiện ý chí của ông Phay mà
thể hiện ý chí của ông Say. Vì lúc đó ông Say bệnh nặng nên không nói được,
tinh thần không minh mẫn do vậy di chúc này không hợp pháp.
Điểm đáng lưu ý là nếu tặng cho thì không thực hiện nghĩa vụ tài sản,
63
nếu di chúc thì phải thực hiện nghĩa vụ tài sản. Để tránh những hậu quả bất lợi
của di chúc, người có tài sản am hiểu pháp luật có thể tặng cho trước khi chết.
Đây là một dạng “lách luật” nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản, chúng ta nên
quy định đối với tặng cho trước khi chết một thời gian ngắn thì nên quy định
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của người được tặng, cho như người
hưởng di chúc. Quy định như vậy vừa đảm bảo sự công bằng giữa người được
tặng cho và người thừa kế, đồng thời góp phần thực hiện nghĩa vụ tài sản của
chủ tài sản, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
3.1.4. Về tính khả thi của di chúc miệng
Mặc dù quy định về di chúc miệng trong Luật thừa kế năm 2008 hiện
hành tương đối chặt chẽ, nhưng trên thực tế, việc áp dụng nó lại gặp phải
nhiều vấn đề bất cập. Đa phần trong các bản án liên quan đến di chúc miệng
đều bị tuyên vô hiệu bởi nó không đáp ứng một cách đầy đủ, trọn vẹn các yêu
cầu để di chúc miệng hợp pháp.
Thứ nhất, vấn đề người làm chứng di chúc miệng cũng đồng thời là
người viết hộ di chúc.
Thứ hai, người làm chứng hoàn toàn có khả năng thay đổi di chúc, sửa
di chúc, ghi sai di chúc và giả mạo di chúc.
Với quy định về vai trò quá lớn của người làm chứng cũng đã vô tình
tạo ra kẽ hở cho những người cố ý làm giả di chúc. Ví dụ: người thừa kế có
thể ngụy tạo ra di chúc miệng bằng cách thuê mướn, mua chuộc người làm
chứng lập ra một biên bản giả mạo, ghi sai lời trăn trối của người chết, rồi tự
nhận đó là di chúc miệng của người để lại di sản và đưa đến cơ quan có thẩm
quyền để công chứng, chứng thực di chúc giả đó. Trong trường hợp này,
người có thẩm quyền công chứng, chứng thực di chúc miệng cũng không thể
biết chắc biên bản do những người làm chứng xuất trình có đúng là lời trăn
trối cuối cùng và đích thực là của người đã chết hay không. Hơn nữa, họ cũng
64