1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

Chương 1NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁTTRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.66 KB, 96 trang )


không nắm vững khái niệm thẩm quyền và phương pháp phân định thẩm

quyền giữa các cơ quan nhà nước.

Do tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi quan hệ chặt chẽ với

nó, nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền. Các nghiên

cứu đã đưa ra những khái niệm khác nhau về thẩm quyền, cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong các văn bản pháp luật Xô Viết thường có chương/điều

về "nhiệm vụ", nên trong khoa học pháp lý Xô Viết có quan điểm cho rằng

"phạm vi các nhiệm vụ" của cơ quan là một trong các yếu tố của thẩm quyền

cơ quan. Theo đó, khái niệm thẩm quyền bao hàm các nhiệm vụ và các quyền

hạn (các quyền và nghĩa vụ). Quan điểm này lại khá phổ biến trong luật hành

chính Cộng hòa dân chủ Đức và cũng có ở Bungari. Có lẽ do sự tiếp nhận

giản đơn quan điểm này mà trong hầu hết các văn bản pháp luật về tổ chức

của nước ta từ Hiến pháp 1980 trở lại đây, những điều mà thực chất là quy

định về thẩm quyền cơ quan và người có chức vụ, đều ghi là "nhiệm vụ và

quyền hạn", nhưng trong các điều đó thật không thể phân biệt đâu là nhiệm vụ,

đâu là quyền hạn. Thể hiện cụ thể trong Hiến pháp 1980 tại các Điều 83, 100,

107, 115; Hiến pháp 1992 tại các Điều 84, 91, 103, 112, 114 và các luật tổ

chức các cơ quan nhà nước.

Nhiệm vụ là đích cần đạt trong đó có những nhiệm vụ chung, lớn, dài

hạn và những nhiệm vụ cụ thể, ngắn hạn. Như vậy, nhiệm vụ thực chất là cái

mà cơ quan phải thực hiện được, là mục đích cụ thể cần đi đến khi thực hiện

thẩm quyền của nó chứ không phải là yếu tố của thẩm quyền. Nhiệm vụ và

thẩm quyền là các khái niệm khác hẳn nhau, nhưng chúng lại có quan hệ rất

chặt chẽ với nhau. Thẩm quyền là phương tiện để thực hiện nhiệm vụ. Nhiệm

vụ góp phần phác họa thẩm quyền, phác họa mục đích, "hướng tác động" của

thẩm quyền, nên cũng có thể nói, nhiệm vụ là tiền đề của thẩm quyền. Đương

nhiên, trước hết nhiệm vụ của cơ quan nhà nước phải được quy định phù hợp

với vị trí, vai trò của nó trong bộ máy nhà nước. Sau đó, khi quy định thẩm



12



quyền, nhà nước thường phải làm theo trình tự sau: căn cứ vào nhiệm vụ mà

quy định chức năng, và căn cứ vào nhiệm vụ và chức năng mà giao quyền hạn.

Thẩm quyền được trao cho cơ quan phải phù hợp với nhiệm vụ của nó, đủ để

thực hiện nhiệm vụ. Theo cách hiểu này thì ở nước ta các hiến pháp "cũ hơn"

lại "chính xác hơn", vì các điều về thẩm quyền cơ quan nhà nước đều chỉ ghi

"quyền hạn" tại các Điều 50, 53, 74 Hiến pháp 1959 hoặc "quyền" hay "quyền

hạn" tại các Điều 36, 49, 52 Hiến pháp 1946.

Thứ hai, có quan điểm cho rằng, "chức năng quản lý" được trao cho

cơ quan là yếu tố của thẩm quyền, theo đó thẩm quyền bao hàm: một là, các

chức năng, hai là, các quyền và nghĩa vụ hoặc là quyền hạn. Biến thể của

quan điểm này là ý kiến coi chức năng và thẩm quyền là hai bộ phận tồn tại

song song và độc lập với nhau. Quan điểm này cũng khá phổ biến ở Việt Nam,

thể hiện trong câu thông dụng ở tên các văn bản, như các nghị định về tổ chức

bộ máy là "quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn", coi các khái niệm

này như tách rời nhau. Nhưng là loại hoạt động, chức năng chỉ mới định ra

hành lang chung, loại hoạt động mà cơ quan được tiến hành, con đường mà

nó được đi, mà chưa xác định phạm vi cụ thể của con đường mà cơ quan đi,

cách đi... Một chức năng có thể do một số cơ quan cùng thực hiện, cũng như

có thể một số cơ quan cùng đi chung một con đường, nhưng mỗi cơ quan đi

một cách khác nhau (với phạm vi, phương pháp khác nhau). Thẩm quyền là

"mảnh sân riêng" chứ không phải là "con đường chung". Ví dụ, giám sát,

thanh tra, kiểm tra là chức năng mà tất cả mọi cơ quan nhà nước đều phải

thực hiện, nhưng mỗi cơ quan có hình thức, phương pháp, phạm vi khác nhau

trong việc thực hiện chức năng đó. Chỉ nói riêng chức năng giám sát, thanh

tra, kiểm tra trật tự an toàn giao thông đường bộ đã có khá nhiều loại cơ quan

và người có chức vụ tiến hành, và mỗi chủ thể đó thực hiện chức năng này

trong phạm vi thẩm quyền của mình, không thể chồng chéo lên nhau. Khi

pháp luật quy định cho một cơ quan nào đó thực hiện một chức năng nào đó,

tức là đã trao cho nó quyền và đồng thời là nghĩa vụ thực hiện chức năng đó.



13



Tóm lại, chức năng không phải là yếu tố của thẩm quyền, mà các quyền và

nghĩa vụ thức hiện các chức năng mới là yếu tố của thẩm quyền. Nhưng từ đó

cũng thấy rõ chức năng và thẩm quyền không hoàn toàn độc lập với nhau. Do

đó sách báo thường viết "giao chức năng và thẩm quyền" là không chính xác.

Việc đầu tiên khi quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước là xác

định các chức năng (loại hoạt động) mà nó cần thực hiện và phạm vi của chức

năng đó (những vấn đề, loại hay những khách thể/đối tượng bị quản lý nhất

định trong những lĩnh vực đời sống xã hội nhất định, những hình thức và

phương pháp hoạt động nhất định để thực hiện những nhiệm vụ nhất định.)

Thứ ba, có quan điểm coi thẩm quyền là tổng thể tất cả quyền, nghĩa

vụ (quyền hạn) và trách nhiệm. Có lẽ là do tầm quan trọng của vấn đề trách

nhiệm. Quan điểm này rất phổ biến ở Việt Nam. Nó không chỉ thể hiện trong

các văn bản pháp luật, mà cả trong sách báo, thậm chí ngay trong các định

nghĩa khái niệm "phân cấp quản lý". Nhưng "trách nhiệm" có thể được hiểu

cả theo hai nghĩa: tinh thần trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ thực hiện công

việc nào đó, hoặc sự gánh chịu hậu quả pháp lý khi không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng thẩm quyền được giao. Nếu hiểu theo nghĩa là quyền và

nghĩa vụ thì nó đồng nhất với thẩm quyền; trong các văn bản pháp luật nghĩa

này thường được thể hiện bằng thuật ngữ kép "có trách nhiệm" hay "chịu

trách nhiệm" thực hiện công việc nào đó. Với nghĩa là "tinh thần trách nhiệm"

thì chỉ mang tính đạo đức chứ không mang tính pháp lý, và "tinh thần" thì

không thể trao, nên không thể là yếu tố của thẩm quyền. Như vậy, "trách

nhiệm" trong tổng thể của quan điểm này chỉ có thể hiểu theo nghĩa thứ hai là

sự gánh chịu hậu quả pháp lý; trong các văn bản pháp luật, nghĩa này thường

hay thể hiện bằng thuật ngữ kép "chịu trách nhiệm trước..." chủ thể nào đó.

Do đó, trách nhiệm không phải là yếu tố của thẩm quyền, mà là hậu quả của

việc thực hiện không đúng thẩm quyền. Trách nhiệm luôn phải được quy định

tương xứng với thẩm quyền, thẩm quyền càng lớn trách nhiệm càng phải cao,

nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, vô trách nhiệm.



14



Trên đây là những quan điểm về thẩm quyền, mỗi quan điểm đều có

những điểm hợp lý của nó và từ những hạt nhân hợp lý đó chúng ta sẽ làm rõ

khái niệm thẩm quyền phải phản ánh được những nội dung sau:

Bàn về thẩm quyền theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp đối

kháng không thể điều hòa. Nhà nước ra đời nhằm làm một nhiệm vụ đặc biệt

là cưỡng chế và quản lý để phục vụ cho việc duy trì trật tự đối với toàn xã hội

để bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. Chức năng này được thực hiện thông

qua bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương và trong đó bao gồm

nhiều loại cơ quan khác nhau tựu trung trong ba loại cơ quan là lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan này có quyền hạn riêng để phù hợp chức

năng nhiệm vụ mà nó phải thi hành.

Chức năng nhiệm vụ cho mỗi cơ quan trong bộ máy này thường được

quy định phụ thuộc vào kiểu nhà nước mà nó đang phục vụ. Cụ thể như trong

nhà nước quân chủ chuyên chế thì quyền lực hoàn toàn tập trung vào tay của nhà

vua. Đối với nhà nước tư bản thì nền tảng quyền lực dựa trên thuyết tam quyền

phân lập mà người đầu tiên khởi xướng cho nó chính là Môngtécxkiơ. Ông đã

chỉ ra rằng "khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay mộ người

hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa" [21, tr. 101-102];

vì người ta sợ rằng chính ông ta hay Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành

một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách

khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập

pháp thì người ta độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; quan

tòa sẽ là người đặt ra luật lệ. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp

thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh đàn áp. Nếu một người hay tổ chức của quan

chức, hoặc quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói

trên thì tất cả sẽ mất hết. Sau đó các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin

khi xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới đã kế thừa những hạt nhân hợp lý

của các học thuyết chính trị và trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm đấu



15



tranh giai cấp để đưa ra quan điểm quyền lực là thống nhất, không phân chia

và thuộc về nhân dân. Học thuyết đó xây dựng Quốc hội là cơ quan đại diện

cho nhân dân và "không phải là một cơ quan đại nghị, mà là một cơ quan

hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp" và "các nghị sĩ phải tự mình công

tác, tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác

dụng của pháp luật ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của

mình" [13]. Tuy nhiên cơ quan quyền lực nhất của Nhà nước không làm tất cả

mọi việc mà phân công cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ

quan có chức năng nhiệm vụ, có quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định.

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Viện Nam, Đảng

và Nhà nước đã đi theo đúng đường lối của học thuyết Mác - Lênin với chủ

trương toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa

giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Điều 2 Hiến

pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã khẳng định: "Quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" [31, tr. 13]

Cụ thể hóa điều này quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua

những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân

bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, được tổ chức và hoạt động theo

nguyên tắc tập trung dân chủ có sự phân công, phân nhiệm trên cơ sở đảm

bảo nguyên tắc thống nhất quyền lực. Ví dụ cùng có thực hiện quyền năng tư

pháp nhưng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có những chức năng và

nhiệm vụ riêng do luật đinh. Phạm vi hoạt động riêng của từng cơ quan đã tạo

ra thẩm quyền cho mỗi cơ quan nhà nước. Từ đó ta có thể thấy thẩm quyền

của cơ quan nhà nước chính là lĩnh vực mà Nhà nước đã giao cho cơ quan đó

thực hiện. Trong phạm vi thẩm quyền đó cơ quan nhà nước không làm thay

chức năng của nhau, không thay thế cơ quan nhà nước này bằng cơ quan nhà

nước khác để thực hiện chức năng đã được xác định. Ví dụ như Quốc hội là

cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước



16



Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền

lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội

và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước,

những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước về quan

hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối

cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành

của Quốc hội, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có quyền quản lý điều hành xã hội trên mọi lĩnh

vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của

Nhà nước, v.v...

Ngoài ra từ điển luật học cũng đã cơ bản xác định được một số điểm

quan trọng của thẩm quyền như sau: "Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành

động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước

do pháp luật quy định" [36].

Từ khái niệm trên đây có thể thấy khi xác định về vấn đề thẩm quyền

luôn phải gắn đối với một chủ thể xác định như một cơ quan hoặc tổ chức

thuộc bộ máy nhà nước. Điều đặc biệt ở của chủ thể trong thẩm quyền là cơ

quan hoặc tổ chức phải thuộc phạm vi điều chỉnh của bộ máy nhà nước, điều

này xác định hạn hẹp một số chủ thể mới được xác định có thẩm quyền.

Ngoài ra thẩm quyền cũng có thể gắn với một cá nhân được thực hiện nhân

danh nhà nước. Ví dụ như Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay

mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ là thành

viên Chính phủ, là người chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác

với Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công

tác trước quốc hội. Với các nhiệm vụ như vậy thì họ sẽ có những quyền hạn

và thẩm quyền nhất định được quy định trong các văn bản cụ thể.

Khi xác định được chủ thể thuộc phạm vi nội hàm của thẩm quyền thì

lúc này mới xác định tới các chức năng nhiệm vụ cũng như phạm vi quyền



17



hạn đối với các chủ thể đó. Dựa trên chủ này người ta tiếp tục đi vào vấn hai

khía cạnh của thẩm quyền đó là thẩm quyền về nội dung và thẩm quyền về

hình thức:

Thẩm quyền về nội dung sẽ quy định tổng hợp những quyền và nghĩa

vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan đó được thực hiện. Trong phạm vi

những quy định của pháp luật thì chủ thế chỉ có thể thực hiện những quyền

năng và phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Dựa trên chính những

quyền năng này thì xác định nên chủ thể ban đầu. Ví dụ như thẩm quyền của

Viện kiểm sát đó là chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật, đây chính là hai chức năng cụ thể trong thầm quyền của Viện

kiểm sát mà được pháp luật quy định.

Thẩm quyền về hình thức sẽ quy định phạm vi những quyền hạn của

chủ thể ban đầu. Phạm vi này có thể là về đối tượng, lãnh thổ, hoạt động hoặc

về sự việc… tuy từng mục đích người ta sẽ xác định phạm vi theo những tiêu

chí nào. Ví dụ thẩm quyền đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ xét xử các

loại án rất nghiêm trọng trở xuống, ngoài phạm vi này Tòa án nhân dân cấp

huyện hoàn toàn không có thẩm quyền xét xử các loại vụ án khác.

Tổng hợp hai bộ phận của thầm quyền lại đều nhằm xác định một

vấn đề đó là chủ thể sẽ thực hiện những chức năng nhiệm vụ như như thế

nào thuộc phạm vi điều chỉnh như thế nào. Việc đó tránh việc chồng chéo về

mặt thẩm quyền giữa các chủ thể với nhau, giúp cho các cơ quan, tổ chức

hoặc cá nhân trong bộ máy nhà nước hoạt động được hiệu quả đạt mục đích

đã đề ra.

Từ những phân tích trên đây chúng ta có thể hiểu thẩm quyền như sau:

Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho

một cơ quan, tổ chức hoặc một cá nhân cho phép giải quyết những việc cụ thể

trong lĩnh vực hoặc phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ

được nhà nước phân công.



18



1.1.2. Thẩm quyền của Viện kiểm sát

Viện kiểm sát là một cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước vì vậy

Viện kiểm sát sẽ thực hiện những chức năng được Nhà nước phân công. Từ

những trách nhiệm và quyền hạn được nhà nước giao cho để thực hiện những

chức năng đó chính là xác định nên thẩm quyền của Viện kiểm sát.

Không như những quốc gia tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân

lập nên quyền lực được phân chia thành các nhánh rõ ràng có chế ước lẫn

nhau nên không có cơ quan Viện kiểm sát mà chỉ có Viện công tố thực hiện

chức năng công tố và thuộc phạm vi điều chỉnh của nhánh quyền lực hành

pháp hoặc thuộc nhánh quyền lực tư pháp khi là một bộ phận của Tòa án. Ở

nước ta bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước

thống nhất, không phân chia, nhưng có sự phân công giữa ba quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Trong đó Viện kiểm sát thuộc nhánh quyền lực tư pháp,

Điều 138 Hiến pháp năm 1980 của nước ta quy định:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và các

cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền

địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân

viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [26].

Có thể nói, đây là văn bản đầu tiên quy định về thẩm quyền của Viện

kiểm sát nói chung ở nước ta, kế thừa sau đó Hiến pháp 1992 cũng có quy

định tương tự, nhưng cho đến này vẫn chưa có một văn bản nào quy định khái

niệm thẩm quyền của Viện kiểm sát. Để xác định được thẩm quyền của Viện

kiểm sát chúng ta cần đi sâu làm rõ hai chức năng của Viện kiểm sát gồm:

Chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật Viện kiểm sát.



19



1.1.2.1. Chức năng thực hành quyền công tố

Chức năng thực hành quyền công tố cũng là một khái niệm chưa được

hiểu một cách pháp quy do đó còn nhiều vấn đề xung quanh khái niệm này

cũng có những quan điểm như:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền công tố là quyền đại diện cho

Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để

bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Nếu quyền công tố được

hiểu như trên thì quá rộng, bởi vì những người ủng hộ quan điểm này đã đồng

nhất chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật với quyền công tố, xác định

phạm vi thực hành quyền công tố không chỉ trong giải quyết vụ án hình sự mà

còn trong giải quyết các vụ án dân sự, vụ án kinh tế, vụ án hành chính, vụ án

lao động thậm chí còn trong cả công tác thi hành án, công tác kiểm sát giam

giữ, cải tạo. Không những thế, cách hiểu này còn phân biệt rõ được hai chức

năng cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân là: Chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật và chức năng thực hành quyền công tố. Mặc dù khi thực hiện, hai

chức năng có một số nội dung đan xen, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,

nhưng đó là 2 chức năng độc lập [13].

- Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố là quyền Nhà nước giao

cho Viện kiểm sát mà trực tiếp là Kiểm sát viên thay mặt Nhà nước thực hiện

buộc tội tại phiên tòa. Những người theo quan điểm này cho rằng quyền công

tố chỉ là quyền buộc tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa, từ đó có thể thấy rằng

quyền công tố chỉ thực hiện tại phiên tòa, và như vậy phạm vi thực hành quyền

công tố chỉ có trong tố tụng hình sự mà cụ thể là chỉ giới hạn trong phiên tòa

hình sự. Không những vậy quan điểm này còn đã lấy một số hoạt động dễ

thấy của thực hành quyền công tố như truy tố, luận tội tại phiên tòa là quyền

công tố. Cách hiểu này quá hẹp về quyền công tố, không những thế đã đồng

nhất việc một số hoạt động thực hành quyền công tố với quyền công tố [39].

- Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền công tố chỉ là một quyền năng,

một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện



20



kiểm sát trong tố tụng hình sự. Với quan điểm này thì không cần có sự phân

biệt giữa chức năng thực hành quyền công tố với chức năng kiểm sát tuân

theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Nếu cho rằng thực hành quyền công tố là

phương thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật, thì không

đánh giá đúng được bản chất của quyền công tố được Viện kiểm sát thực hiện

là nhân danh quyền lực công và vốn là một trong hai chức năng được Quốc

hội giao cho Viện kiểm sát. Các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam

trong đó có các văn bản pháp luật mới nhất là luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân năm 2002 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đều quy định Viện kiểm

sát nhân dân có hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp [1, tr. 1-12].

- Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền buộc tội (quyền

truy cứu trách nhiệm hình sự) nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực

công) đối với kẻ phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao

cho một cơ quan cụ thể thực hiện mà ở Việt Nam là Viện kiểm sát. Để thực

hiện chức năng này cơ quan công tố phải đảm bảo việc thu thập tài liệu,

chứng cứ của cơ quan điều tra một cách chính xác và khách quan để từ đó

nhằm xác định đúng tội phạm và người phạm tội, từ đó truy cứu người phạm

tội ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước Tòa án [37, tr. 12-15].

Các quan điểm trên đây ít hay nhiều đều có những hạt nhân hợp lý của

nó. Để xác định đúng đắn khái niệm quyền công tố chúng ta phải khẳng định

một số vấn đề đó là: Quyền công tố là quyền của Nhà nước, Nhà nước ủy

quyền cho cho cơ quan cụ thể thực hiện quyền này trong bộ máy cơ quan

nhà nước phân quyền hoặc phân công thực hiện chức năng; tiếp theo, quyền

công tố về thực chất là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với người phạm tội. Để làm được điều đó, cơ quan được giao nhiệm vụ

thực hành quyền công tố phải xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ

sở đó truy tố bị can ra trước tòa và bảo vệ sự buộc tội; cuối cùng, quyền

công tố mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ thể



21



đã được thực hiện và đối với những người phạm tội cụ thể, không tồn tại

quyền công tố chung chung.

Với những phân tích và dẫn chứng trên đây cùng với việc tán thành ý

kiến lấy xuất phát điểm từ quan niệm về quyền công tố là quyền của cơ quan

nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó, thì

chúng ta có thể đưa ra khái niệm về thực hành quyền công tố như sau: Thực

hành quyền công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy

định của pháp luật tố tụng hình sự, để truy cứu trách nhiệm hình sự với người

phạm tội nhằm đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc

tội đó.

1.1.2.2. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật

Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một dạng hoạt động có

tính quyền lực Nhà nước, nguồn gốc quyền lực kiểm sát có tính phái sinh từ

quyền lực Quốc hội. Hoạt động kiểm sát là một dạng của hoạt động giám sát theo dõi, kiểm tra việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật trong việc ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật và trong hoạt động của những chủ thể nhất định

theo sự ủy quyền của Quốc hội, như PGS.TS Trần Văn Độ thì:

Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám

sát tư pháp là một bộ phận, một lĩnh vực của giám sát Nhà nước

trong lĩnh vực tư pháp...

Còn theo nghĩa hẹp, thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức

năng của Viện kiểm sát đảm bảo cho pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất trong giải quyết các vụ xung đột và

tranh chấp pháp luật [13, tr. 12].

Trong phạm vi luận văn này chúng tôi chỉ nghiên cứu kiểm sát tư

pháp theo nghĩa hẹp vì vậy mà thẩm quyền kiểm sát tư pháp duy nhất thuộc

về Viện kiểm sát. Phạm vi của hoạt động này theo Điều 3 Luật tổ chức Viện



22



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

×