1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Luật >

Chương 3HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.66 KB, 96 trang )


Theo quy định hiện hành, nội dung cáo trạng gồm các vấn đề sau: Phải ghi rõ

ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ

phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những

chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý

nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều

khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng. Như vậy, bản cáo trạng trong pháp

luật tố tụng hình sự nước ta không chỉ nêu hành vi phạm tội, đặc điểm nhân

thân bị can mà còn viện dẫn các chứng cứ xác định tội trạng, đã làm cho cáo

trạng vừa thiếu chắc chắn, vừa dài, gây tốn kém chi phí không cần thiết (vì có

những chứng cứ chỉ tại Toà án mới được khẳng định). Kinh nghiệm pháp luật

nước ngoài cho thấy, nhìn chung nội dung cáo trạng truy tố bị can ra toà

thường ngắn gọn, chỉ nêu họ tên bị can hoặc các bị can, hành vi phạm tội bị

truy tố (tội danh), thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm, hậu quả của tội

phạm, lai lịch bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án, điều khoản

truy tố. Nội dung cáo trạng không viện dẫn chứng cứ chứng minh tội phạm.

Đối với các vụ án áp dụng thủ tục rút gọn thì chỉ ra thông báo hoặc quyết định

truy tố nêu rõ họ tên bị can, hành vi phạm tội và điều, khoản áp dụng của Bộ

luật Hình sự.

Thực tiễn thi hành các quy định về thủ tục truy tố trong Bộ luật Tố

tụng hình sự hiện hành cho thấy còn có những quy định thiếu cụ thể, không

khả thi, rườm rà, làm kéo dài việc giải quyết vụ án. Có những trường hợp về

thực chất là miễn truy tố nhưng do luật không quy định, dẫn đến thực tiễn

thường vận dụng căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 của

Bộ luật Hình sự, trong khi Điều luật này chỉ quy định chung là "do chuyển

biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy

hiểm cho xã hội nữa" là chưa phù hợp. Thời hạn truy tố chủ yếu căn cứ vào sự

phân loại tội phạm là chưa phù hợp với thực tiễn. Có những vụ án thuộc loại

tội ít nghiêm trọng nhưng tính chất vụ án rất phức tạp (vụ án tội gây rối trật tự



82



công cộng, cố ý gây thương tích vào ban đêm, có nhiều bị can tham gia),

không có nhân chứng trực tiếp, vật chứng không thu hồi được. Việc đánh giá

chứng cứ, xác định vị trí vai trò của từng bị can trong những vụ án thường

dựa vào những chứng cứ gián tiếp, dựa vào niềm tin nội tâm. Do tính chất

phức tạp như vậy, thời gian luật định thường không đủ để hoàn thành cáo

trạng truy tố. Ngược lại, có những vụ án tuy thuộc loại tội rất nghiêm trọng,

đặc biệt nghiêm trọng nhưng phạm tội quả tang (giết người, cướp tài sản)

chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, hoàn toàn có thể kết thúc việc

truy tố sớm hơn nhiều so với thời hạn luật định. Thời hạn 3 ngày để hoàn

thành thủ tục truy tố trong những vụ án rút gọn cũng là quá ngắn, khó thực

hiện, nhất là trong những trường hợp bị can tại ngoại. Điều đó giải thích tại

sao, tỷ lệ án do Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn nhiều và vì sao các

địa phương ngại áp dụng thủ tục rút gọn.

Nội dung bản cáo trạng theo quy định hiện hành Điều 167 Bộ luật Tố

tụng hình sự còn rườm rà do phải mô tả nội dung hành vi phạm tội, viện dẫn

chứng cứ, nhân thân bị can mà trong đó nêu cả tên, tuổi những người thân

thích của bị can (bố mẹ, anh em ruột, vợ, các con) là không cần thiết, gây

phản cảm. Trong thời hạn ba ngày, Viện kiểm sát phải giao cáo trạng cho bị

can (khoản 1 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng hình sự) là không khả thi, quá

ngắn đối với những trường hợp vụ án có nhiều bị can tại ngoại, bị can tạm

giam ở nơi xa. Nhiều địa phương và trong hầu hết các vụ án thường vi phạm

thời hạn luật định về giao nhận cáo trạng.

Quy định trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của

cấp mình, Viện kiểm sát phải ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm

sát có thẩm quyền tại khoản 4, Điều 166 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng

luật không quy định thời hạn truy tố cho Viện kiểm sát khác có thẩm quyền

truy tố, đã hạn chế việc nghiên cứu hồ sơ, củng cố chứng cứ hồ sơ vụ án, dẫn

đến số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn nhiều.



83



3.2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ



Thứ nhất, thời hạn truy tố phải phù hợp, khả thi để "truy tố chính xác,

đầy đủ mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, đồng thời không làm oan

người vô tội"; theo đó, không phân định thời hạn truy tố theo loại tội phạm

mà quy định chung thời hạn truy tố các vụ án là 30 ngày, nếu vụ án phức tạp

thì gia hạn 15 ngày hoặc 30 ngày. Bên cạnh đó dành thẩm quyền ban hành

cáo trạng nên giao cho Kiểm sát viên phụ trách, nhân danh Viện kiểm sát có

thẩm quyền truy tố ban hành, vừa là để tăng quyền hạn và trách nhiệm cho

Kiểm sát viên, cũng là để thuận lợi cho việc rút, thay đổi cáo trạng của Kiểm

sát viên tại phiên toà.

Thứ hai, bổ sung khoản 1 Điều 167 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về

vấn đề nhân thân bị can. Nội dung cáo trạng cần súc tích, ngắn gọn và chắc

chắn, chỉ nêu hành vi và tội danh truy tố, đặc điểm nhân thân của cá nhân bị

can và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án,

không viện dẫn chứng cứ, không nêu danh tính của những người thân thích

của bị can để giảm thiểu sự rườm rà không cần thiết và tiết kiệm chi phí tố

tụng. Nếu không được xác định một cách chính xác nhân thân bị can thì được

xử lý như thế nào? Trong quá trình ra bản cáo trạng, nhân thân bị can hay

chính là lý lịch tư pháp của họ là một phận quan trọng của bản cáo trạng.

Không những thế nhân thân bị can còn là cơ sở để quyết định hình phạt theo

nguyên tắc cá thể hóa hình phạt một nguyên tắc quan trọng của Luật hình sự.

Trong trường hợp nếu không thể xác định được nhân thân bị can theo những

quy định của pháp luật thì việc hoàn thành những thủ tục tố tụng sẽ gặp rất

nhiều khó khăn. Chúng ta có thể bổ sung đó là trong những trường hợp mà

nhân thân bị can không thể xác định một cách chính xác được thì có thể áp

dụng nhân thân mới nhất có thể xác định được đối với bị can.

Thứ ba, bổ sung khoản 1 Điều166 về thời hạn giao cáo trạng, quyết

định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong trường hợp đặc biệt được kéo dài hơn



84



3 ngày, có thể lên đến 10 ngày. Trong thực tế tiến hành các hoạt động tố tụng

việc thực hiện việc giao cáo trang cho bị can trong đúng 3 ngày là một vấn đề

rất khó thực hiện. Nếu một vụ án mà có đến hàng trăm bị can thì việc giao cáo

trạng trong 3 ngày mỗi ngày làm 8 giờ để hoàn thành công việc này đúng như

quy định pháp luật đã là một vấn đề bất khả thi.

Thứ tư, bổ sung thêm quy định cho phép Viện kiểm sát có thể tách

nhập vụ án khi thấy cần thiết trong Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong

trường hợp khi mà quan hệ phối hợp không tốt có dấu hiệu của việc quyền

anh, quyền tôi thì nếu Cơ quan điều tra cố tình không chịu tách nhập vụ án

gây cản trở hoạt động truy tố của Viện kiểm sát thì lúc đó Viện kiểm sát cần

phải có công cụ để thực hiện quyền năng này. Việc bổ sung quyền này chính

là phục vụ công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp

với Cơ quan điều tra được toàn diện đầy đủ hơn. Thực tế đã cho thấy khi xẩy

ra tình trạng

Thứ năm, bổ sung vào khoản 2 Điều 305 về trường hợp yêu cầu chỉ

định người bào chữa cho người chưa thành niên thêm trường hợp "không mời

người bào chữa" để thống nhất với Điều 57. Tránh tình trạng nếu người chưa

thành niên hoặc đại diện của họ không mời người bào chữa thì lúc đó theo

khoản 2 Điều 305 chúng ta sẽ không thể mời được người bào chữa thay họ.

Mà đối với người chưa thành niên vốn được hiểu là người chưa hoàn thiện

đầy đủ về thể chất và tâm thần nên việc họ phải có người bào chữa là quy

định bắt buộc của pháp luật.

Thứ sáu, bổ sung Điều 36 và Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự về

quyền quyết định phục hồi vụ án trong giai đoạn truy tố cho Viện kiểm sát.

Đây là điều cần thiết vì việc Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định cho Viện

kiểm sát quyền năng được đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án nhưng lại chỉ cho

họ quyền phục hồi điều tra. Vậy khi lý do để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án

không còn, vụ án được trở lại giai đoạn truy tố. Lúc này giai đoạn điều tra đã



85



kết thúc thì chúng ta không thể phục hồi điều tra mà phải là phục hồi vụ án.

Đề đảm bảo xác định đúng vị trí của vụ án trong giai đoạn tố tụng này.

Thứ bẩy, Quy định rõ các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhất là

căn cứ: "thiếu chứng cứ quan trọng về vụ án mà Viện kiểm sát hoặc Toà án

không thể bổ sung được" và căn cứ "vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

hình sự". Quy định cụ thể trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc trả hồ sơ

để điều tra bổ sung và trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong thực hiện việc

điều tra bổ sung.

Thứ tám, đề nghị cơ quan có thẩm quyền có hướng dẫn thực hiện

khoản 5 Điều 93 Bộ luật Tố tụng hình sự về mức tiền hoặc tài sản phải đặt khi

áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đây

đang là một vấn đề chưa được giải quyết một cách chu đáo trong việc thực

hiện biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Tìm hiểu trong thực tế chúng

tôi nhận thấy việc thực hiện đặt số lượng tiền bao nhiêu chủ yếu là do căn cứ

vào từng vụ án cụ thể, từng con người cụ thể, từng địa phương cụ thể mà chưa

có một chuẩn mực chung để áp dụng cho vấn đề này. Điều này gây nhiều khó

khăn cho quá trình thực hiện biện pháp ngăn chặn này. Việc không có những

quy định cụ thể về việc áp dụng mức đặt cọc đối với từng nhóm tội phạm khiến

cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này đôi khi gây ra sự mất công bằng.

Thứ tám, thay đổi Điều 116 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng Viện

kiểm sát khi phát hiện thấy việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền hoặc

không đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị can thì có thể tự mình ra quyết định

chuyển vụ án. Cơ quan điều tra chỉ có thể có văn bản đề nghị việc hoãn ra quyết

định chuyển vụ án nếu có lý do chính đáng, nếu Viện kiểm sát ngang cấp không

chấp thuận lý do có thể khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên để giải quyết.

Thứ chín, xây dựng cơ chế khi xẩy ra tranh chấp thẩm quyền giữa các

địa phương cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng. Tránh trường hợp để vụ án

và bị can không được thụ lý tại cơ quan tiến hành tố tụng nào. Cụ thể khi xẩy



86



ra tranh chấp trong cùng một tỉnh thì do cấp trên trực tiếp quyết đinh, khi xẩy ra

giữa các tỉnh khác nhau nếu không giải quyết thì do cấp trung ương xác định.

Việc xây dựng cơ chế như vậy góp phần giải quyêt những tranh chấp giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng với nhau góp phần đảm bảo việc truy tố xử lý vụ án

một cách trọn vẹn và đầy đủ.

3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THẨM

QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT



Với yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng nên việc đảm bảo cơ

sở vật chất để phục vụ cho hoạt động này cũng phải ngày càng hoàn thiện

hơn. Trong tiến trình cải cách tư pháp của nhà nước ta đã có những đầu tư đối

với ngành kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh nói riêng. Nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế vì vậy

chúng tôi có một số kiến nghị sau đây:

Thứ nhất: Tăng cường kinh phí cho ngành kiểm sát để đảm bảo hoạt

động của ngành được thuận lợi đáp ứng được yêu cầu của công việc. Thực tế

tất cả các viện kiểm sát cấp huyện khống có xe ôtô. Với địa bàn rộng và hiểm

trở như Quảng Ninh, việc Kiểm sát viên tham gia khám nghiệm hiện trường

có nhiều khó khăn. Phần lớn phải đi nhờ xe của hội đồng khám nghiệm. Điều

này dẫn tới sự phụ thuộc nhất định, hạn chế sự chủ động trong công tác của

Kiểm sát viên. Ngoài ra do sự phát triển của nền kinh tế, các thủ đoạn của tội

phạm cũng ngày càng tinh vi hơn việc sớm trang bị các trang thiết bị hiện đại

phục vụ việc đấu tranh phòng chống tội phạm của Viện kiểm sát.

Thứ hai: Sự quá tải của công việc được giao chính là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng hời hợt, qua loa, đại khái, thiếu trách nhiệm

khi giải quyết công việc, ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Trong những

năm gần đây tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và có mức độ

nguy hiểm ngày càng cao. Các vụ án có tổ chức và đồng phạm cũng có số

lượng tăng cao. Do vậy, trong thời gian tới cần đảm bảo đủ số lượng, nâng



87



cao chất lượng Kiểm sát viên để có thể đủ sức đảm đương những công việc

khó khăn và phức tạp. Tuy vấn đề đấu tranh trấn áp ngày càng khó khăn hơn,

nhưng trong những năm gần đây biên chế của ngành kiểm sát Quảng Ninh

gần như không tăng làm cho công việc ngày càng vất vả và khó khăn hơn. Vì

vậy, để có thể đáp ứng nhu cầu chúng ta nên tăng cả về chất và lượng cho

ngành kiểm sát trong thời gian tới để có thể làm tốt được công việc Đảng và

Nhà nước giao cho.

Thứ ba: Chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ

kiểm sát. Trong thực tế hội nhập nảy sinh nhiều loại tội phạm trong nhiều lĩnh

vực khác nhau đòi hỏi người cán bộ kiểm sát phải nắm bắt được được các lĩnh

vực đó để làm tốt công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm. Cụ thể như

các kĩ năng về nghiệp vụ, thao tác, ngoại ngữ và tin học… cần được đào tạo

và bồi dưỡng thường xuyên để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình

hình mới. Tăng cường kiểm tra sát hạch định kỳ để bảo đảm trình độ chuyên

môn và nghiệp vụ, không thể chỉ đơn thuần dựa vào chủ nghĩa kinh nghiệm

mà xem nhẹ việc không ngừng nâng cao trình độ của Kiểm sát viên làm công

tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Cần có chế độ đãi

ngộ, thưởng, phạt hợp lý đối với kiểm sát viên. Con người chỉ có thể toàn tâm

cho công việc khi công việc đó tạo cho họ cuộc sống vật chất và tinh thần ổn

định, đủ sức chống chọi những cám dỗ đời thường. Về vấn đề này Nghị quyết

08 yêu cầu trong thời gian tới phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí,

phương tiện làm việc, có chính sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ

phù hợp cho cán bộ tư pháp; khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có

thành tích, chiến công trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời cần

xử lý nghiêm minh những cán bộ có hành vi sai trái vi phạm pháp luật, vi

phạm đạo đức nghề nghiệp để có thể làm trong sạch đội ngũ, lấy lại niềm tin

của nhân dân vào công lý. Qua thực tiễn giải quyết những vụ án hình sự thời

gian qua cho thấy sai phạm của các cán bộ tư pháp thể hiện rất rõ nét. Bên

cạnh nguyên nhân do trình độ non kém còn là những biểu hiện tiêu cực của



88



hành vi móc nối, tham nhũng, tiếp tay cho kẻ phạm tội. Công tác điều tra ban

đầu sai lệch, mớm cung, ép cung buộc bị cáo nhận tội. Khi truy tố xét xử cả

Viện kiểm sát và Tòa án đều chủ quan, không làm rõ cả hai mặt buộc tội và

gỡ tội dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Tùy thuộc vào mức độ sai phạm mà có

thể xử lý kỷ luật hay truy cứu trách nhiệm hình sự cán bộ sai phạm.

Thứ tư: Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật.

Chính do tâm lý ngại kiện tụng, kiến thức pháp luật chưa cao, ý thức bảo vệ

quyền lợi cá nhân ít được thể hiện khiến người dân tránh né, chấp nhận oan

uổng, thiệt hại về mình. Bên cạnh đó nhiều người bào chữa vì nhiều lý do khác

nhau đã không làm tốt nhiệm vụ của mình. Để có thể đảm bảo quyền lợi người

dân cần thực hiện tốt quá trình tranh luận tại tòa, khẳng định vị thế của luật sư

trong hoạt động tố tụng. Hiện nay, thường chỉ là mạnh luật sư nào luật sư ấy hoạt

động khiến cho đôi lúc hiệu quả hoạt động chưa cao. Vai trò của luật sư muốn

được nâng cao thì ngay chính Đoàn luật sư phải có tiếng nói mạnh hơn trong

việc cùng luật sư lên tiếng đối với việc vi phạm quyền hành nghề luật sư.

Nghị quyết 08 yêu cầu các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để

luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu

hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Bên cạnh đó nhiều đối tượng do

nhận thức pháp luật hạn chế, có những trường hợp người phạm tội không biết

mình đã thực hiện tội phạm. Họ phần lớn bị lôi kéo vào việc thực hiện các

hành vi phạm tội. Trên địa bàn Quảng Ninh thời gian qua, công tác phổ biến

giáo dục pháp luật đã được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao. Cần thiết phải

có sự đầu tư toàn diện hơn kể cả về nội dung lẫn hình thức tuyên truyền cũng

như mở rộng về đối tượng và phạm vi tuyên truyền. Có như vậy mới đạt được

mục đích nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng

dân cư, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Thứ năm: Tăng cường cơ chế giám sát về tin báo tố giác tội phạm giữa

Viện kiểm sát đối với các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như

Hải qua, Biên phòng, Kiểm lâm… Hiện tại cơ chế giám sát còn rất lỏng lẻo để



89



tránh lọt hành vi phạm tội phải tiếp tục tăng cường và hoàn thiện các cơ chế

phối hợp giữa các cơ quan này với Viện kiểm sát. Bên canh đó đẩy mạnh

công tác kiểm tra hoạt động áp dụng pháp luật của Cơ quan điều tra và Tòa án.

Việc kiểm tra này là nguồn chủ yếu để phát hiện những vi phạm pháp luật

trong quá trình áp dụng pháp luật. Tất nhiên theo quy định của pháp luật chức

năng kiểm sát tư pháp này thuộc về Viện kiểm sát, song bản thân từng cơ

quan phải tự kiểm tra công tác áp dụng pháp luật của mình.

Thực tế cho thấy rất nhiều hành vi phạm tội diễn ra trong đời sống

nhân dân nhưng không được cơ quan có thẩm quyền nắm bắt vì người dân

không hiểu hết mức độ nguy hiểm của hành vi nên đã không trình báo với cơ

quan có thẩm quyền. Trong một số trường hợp công dân đi trình báo nhưng

cơ quan nhà nước tiếp nhận không đây đủ hoặc tiếp nhận nhưng không có

hoạt động giải quyết. Vì vậy cần phải tăng cường hơn nữa việc xử lý tin báo

tố giác tội phạm từ các cơ quan cấp cơ sở.



90



KẾT LUẬN



Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố là tập hợp gồm

các quyền và nghĩa vụ mà Viện kiểm sát phải thực hiện trong giai đoạn truy tố

nhằm đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và bảo vệ

quyền con người. Thẩm quyền này được đặt trong những phạm vi nhất định

đối với từng chủ thể nhất định, không phải tất cả các Viện kiểm sát đều có

thẩm quyền giống nhau mà tùy vào từng phạm vi mà mỗi Viện kiểm sát lại có

được những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Những số liệu thực tế trong thời

gian gần đây ở Viện kiểm sát tại Quảng Ninh là minh họa trực quan cho

những phân tích đánh giá và nhận về thẩm quyền của Viện kiểm sát nói chung

và trong giai đoạn truy tố nói riêng. Dựa trên những phân tích nhận định đó

đã đưa ra được một số giải pháp để nâng cao hiệu của hoạt động của Viện

kiểm sát trong giai đoạn truy tố.

Trong thời gian nghiên cứu không dài, quá trình khảo sát viết luận

văn gặp nhiều khó khăn nhưng được sự tận tình giúp đỡ của người hướng dẫn

khoa học, các nhà khoa học, các cán bộ nghiên cứu, các cán bộ lãnh đạo, cán

bộ hoạt động thực tiễn và đồng nghiệp ở các cơ quan chức năng, cùng với sự

nỗ lực cố gắng của bản thân để hoàn thành. Nội dung nghiên cứu của luận văn

là một vấn đề rất phức tạp, mang tính nhạy cảm, cần tiếp tục hoàn thiện.

Luận văn cũng đã chỉ rõ những ưu điểm, nhược điểm, khó khăn bất

cập trong việc thực thi thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu của hoạt động này như:

kiến nghị hoàn thiện một số quy định về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong

giai đoạn truy tố; tiếp tục đề nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp

luật và tập trung vào một số chế định đang có nhiều tranh luận cụ thể, một số

quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; đề xuất những giải pháp nâng cao

chất lượng của hoạt động truy tố của Viện kiểm sát nhằm tiếp tục nâng cao



91



chất lượng của hoạt động truy tố của Viện kiểm sát để thực hiện một cách có

hiệu quả hơn trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự.

Tác giả hy vọng luận văn sẽ góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận

về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố đặc biệt là cung cấp

thêm các luận cứ nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

về thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự hiện

nay. Do điều kiện và khả năng nghiên cứu còn hạn chế, nên không thể tránh

khỏi những khiếm khuyết, tác giả rất mong nhận được những đóng góp xây

dựng của các nhà khoa học và bạn đọc.



92



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

×