Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.66 KB, 96 trang )
sai thống trị. Lúc này pháp luật hai miền có sự khác biệt rõ rệt. Trong phạm vi
nghiên cứu chúng ta xem xét pháp luật tại miền Bắc trong thời gian này đánh
dấu một bước tiến lớn. Ngày 26/7/1960, Viện kiểm sát đã được thành lập tách
biệt giữa thẩm quyền truy tố và thẩm quyền xét xử tạo nên một hệ thống cơ
quan mới độc lập chuyên biệt thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự. Trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về
hình sự kèm theo Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân
tối cao, đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm bị cáo: Bị cáo là người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử,
Tòa án nhân dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách là bị cáo, nếu
Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố người đó trước Tòa án nhân dân; nếu Viện
Kiểm sát không truy tố thì Tòa án nhân dân không được xét xử một người với
tư cách là bị cáo, trừ những người mà Tòa án nhân dân xét xử về những việc
hình sự nhỏ. Điều này cho thấy đã có sự giới hạn thầm quyền xét xử của Tòa
án, nâng cao vai trò truy tố của Viện kiểm sát.
Trong giai đoạn này bắt đầu hình thành nên những quy định cụ thể về
thẩm quyền của Viện kiểm sát từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn truy tố một
cách cụ thể hơn như việc phê chuẩn bắt khẩn cấp, phê chuẩn lệnh tạm giam...
tuy nhiên mới ở mức độ giản đơn chưa thực sự chi tiết cụ thể và vai trò của
Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố chưa thực sự được thật sự quan tâm.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng vào năm 1975, đất nước bước
vào thời kì hòa bình để phát triển xây dựng đất nước. Để thích nghi với tình
hình mới buộc phải cho ra đời hàng loạt các quy định về pháp luật nói chung
và lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng. Trong đó đối với Viện kiểm sát đã được
đặt ra những nguyên tắc cốt lõi đó: Viện kiểm sát nhân dân làm nhiệm vụ của
mình một cách độc lập. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 18 Sắc luật
số 01-SL-76: Ngành kiểm sát là một hệ thống thống nhất, Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên.
47
Về những hoạt động tố tụng cụ thể trong thời gian này đã có những
bước tiến đối với thẩm quyền của Viện kiểm sát ví dụ: Về những biện pháp
ngăn chặn, Sắc luật số 02-SL-76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chánh phủ
cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định việc bắt, giam,
khám người, khám nhà ở, khám đồ vật. Điều 1, Sắc luật quy định: Việc bắt
giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật phải có lệnh viết của cơ quan có
thẩm quyền, trừ trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp. Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan có quyền ra lệnh bắt, giam, khám người, khám
nhà ở, khám đồ vật trong những vụ án hình sự. Trưởng và phó cơ quan An
ninh từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên có quyền ra lệnh
bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật của kẻ phạm tội; lệnh đó
phải được sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân, nếu là vụ án hình
sự, hoặc của Ủy ban nhân dân cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập
trung cải tạo.
Tuy đã có được một số bước tiến nhưng việc truy tố bị can của Viện
kiểm sát chủ yếu dựa trên hoạt động điều tra của Công an, bản thân Viện
kiểm sát chưa có những hoạt động cụ thể để đảm bảo việc truy tố của mình.
Trong thời kì này pháp luật tố tụng hình sự đã đáp ứng, phục vụ yêu cầu trấn
áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Cùng với những hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự đã được ban hành trước đây tạo tiền đề cho sự ra đời
Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện, khắc phục từng bước những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra
những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Lúc
này nhiều những vẫn đề mới nảy sinh trong xã hội nói chung và đặc biệt trong
lĩnh vực pháp lý nói riêng. Vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như
các tệ nạn trong xã hội trở nên vô cùng cấp bách. Cùng với sự ra đời của Bộ
48
luật hình sự năm 1985 đòi hỏi phải có một Bộ luật Tố tụng hình sự hoàn
chỉnh để đảm bảo thực hiện Bộ luật hình sự được thống nhất và toàn diện.
Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự là vấn đề mang
tính khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Bộ luật
Tố tụng hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1989 (sau đây gọi tắt là Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988).
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định trình tự, thủ tục tiến hành
các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Bộ luật đã kế
thừa và phát triển những thành tựu của luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là
từ Cách mạng tháng Tám đến nay, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và
triệt để mọi hành vi phạm tội. Cụ thể Bộ luật này đã quy định rõ ràng về thẩm
quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố như sau:
Theo Điều 88, 90,91 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, khi Cơ quan
điều tra hay bất kì một cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án
hoặc quyết định không khởi tố đều phải gửi quyết định đó đến Viện kiểm sát
để kiểm sát việc khởi tố hoặc không khởi tố có đảm bảo đủ căn cứ hay không.
Nếu Viện kiểm sát xác quyết định không có đủ căn cứ thì có quyền hủy các
quyết định đó để thực hiện theo yêu cầu của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, những
quyết định của Viện kiểm sát có thể bị khiếu nại với Viện kiểm sát cấp trên.
Sau khi khởi tố trong quá trình điều tra, thẩm quyền của Viện kiểm sát
tham gia hoạt động thực hành quyền công tố đối với hoạt động của Cơ quan
điều tra là chủ yếu, hoạt động kiểm sát điều tra tương đối mờ nhạt. Cụ thể
Viện kiểm sát chỉ được thông báo kết quả trong hoạt động tố tụng quan trọng
như khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung khởi tố bị can, tạm đình chỉ hoặc
49
đình chỉ điều tra; ngoài ra Viện kiểm sát được quyền phê chuẩn Lệnh bắt bị
can để tạm giam, Lệnh bắt khẩn cấp và Lệnh tam giam. Sau đó nếu vụ án kết
thúc điều tra Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đề nghị truy tố thì lúc này hai
chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra mới thực
sự đầy đủ. Cụ thể điều đó trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã có hẳn
một chương thứ 14 quy định về "Kiểm sát điều tra. Quyết định việc truy tố"
lúc này thẩm quyền của Viện kiểm sát mới thể hiện rõ nét nhất, cụ thể:
- Về biện pháp ngăn chặn: Theo Khoản 2 Điều 142 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988, Viện kiểm sát có thể tự mình thay đổi hoặc áp dụng biện
pháp ngăn chăn mà không cần đề nghị của Cơ quan điều tra.
- Trả hồ sơ điều tra bổ sung: Theo Điều 143a Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988, khi xét thấy những dấu hiệu trong quy định của điều luật này Viện
kiểm sát có quyền trả lại hồ sơ để Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra hoặc khắc
phục nhưng hoạt động tố tụng trong quá trình điều tra.
- Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án: Theo Điều 143b Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988, khi có đủ những căn cứ trong điều này Viện
kiểm sát có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Quyết định truy tố bị can: Theo Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988 thì Bản Cáo trạng chính là quyết định quan trong và có giá trị nhất
đối với toàn bộ hoạt động truy tố của Viện kiểm sát. Tất cả mọi hoạt động của
Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố đều nhằm để có thể ban hành quyết định
này để truy tố đúng người đúng tội ra trước Tòa án để xét xử.
2.1.2. Qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được sửa đổi bổ sung vào năm
1990 với nhiều cải cách, tuy nhiên bộ luật này được xây dựng trên nền tảng
nghiên cứu từ năm 1974 nên chịu nhiều ảnh hưởng của chế độ bao cấp có
những chế định đã không còn phù hợp với thời điểm hiện tại trong giai đoạn
50
xây dựng nên kinh tế thị trường. Sau đó trên tinh thần của Nghị quyết 08/NQTW năm 2002 của Bộ Chính trị và những dự thảo luật tố tụng hình sự, đã xây
dựng thành công Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đang có hiệu lực đến này.
Bộ luật này đã kế thừa được những giá trị của bộ luật năm 1988 và bổ sung
nhiều chế định mới đặc biệt về thẩm quyền của Viện kiểm sát nói chung và
giai đoạn truy tố nói riêng. Bộ luật đã nâng cao được vai trò của Viện kiểm
sát trong toàn bộ quá trình tố tụng. Cụ thể hoạt động truy tố của Viện kiểm sát
được nâng cao hiệu quả bằng những quy định về việc kiểm sát điều tra đối với
hoạt động của Cơ quan điều tra, giúp Viện kiểm sát đảm bảo việc truy tố đúng
người đúng tội. Chứng minh cho điều này chúng ta tìm hiểu cụ thể những quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố có so sánh với với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.
2.1.2.1. Phạm vi điều chỉnh
Tương tự như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật năm 2003
cũng không có những quy định riêng về thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát
mà đều căn cứ theo thẩm quyền xét xử của Tòa án. Vậy để xem xét phạm vi
thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố chúng ta sẽ căn cứ vào
các quy định về phạm vi việc xét xử của Tòa án từ đó làm rõ về phạm vi truy
tố của Viện kiểm sát cụ thể gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, đối với thẩm quyền theo sự việc, theo Điều 170 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2003 đã phân ra những nhóm tội sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của
cấp huyện hay cấp tỉnh như sau: Tòa án cấp huyện sẽ xét xử sơ thẩm những
loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng trừ một số
loại tội phạm được liệt kê cụ thể trong điều này, Tòa cấp tỉnh xét xử sơ thẩm
tất cả các tội phạm không thuộc thẩm quyền xét xử của cấp huyện và có thể
xét xử cả những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà lấy lên để
xét xử. Bên cạnh đó Khoản 3, Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 phân định cụ
thể các nhóm tội khác nhau gồm: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm mà
51
khung hình phạt cao nhất với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng
là tội phạm mà khung hình phạt cao nhất với tội ấy là đến bảy năm tù; tội
phạm rất nghiêm trọng là tội phạm mà khung hình phạt cao nhất với tội ấy là
đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm mà khung
hình phạt cao nhất với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình. Từ hai cơ sở này có thể thấy phân định thẩm quyền truy tố của Viện
kiểm sát là cụ thể giữa các cấp với nhau. Trong đó Viện kiểm sát cấp tỉnh và
tương đương có đặc quyền lớn hơn khi có thể tự mình lấy được những vụ án
của cấp dưới để truy tố. Nhà làm luật cho phép Viện kiểm sát cấp tỉnh lấy các
vụ án của Viện kiểm sát cấp huyện lên để truy tố khi Viện kiểm sát cấp huyện
có dấu hiệu bỏ lọt hay truy tố không đúng người đúng tội thì Viện kiểm sát
cấp tỉnh sẽ tiến hành điều tra và truy tố với vai trò là cấp trên giám sát hoạt
động đối với Viện kiểm sát cấp huyện. Một nguyên nhân khác đó là để giúp
bớt khó khăn cho Viện kiểm sát cấp huyện vì một số vụ án đòi hỏi nhiều kinh
nghiệm cũng như trí tuệ để đảm bảo truy tố đúng người đúng tội thì Viện
kiểm sát cấp tỉnh với nhiều kiểm sát viên kinh nghiệm sẽ đảm đương tốt hơn.
So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 đã mở rộng thẩm quyền hơn cho Viện kiểm sát cấp huyện và cũng
cụ thể hóa rõ nét đối với loại tội mà Viện kiểm sát cấp nào thì có quyền được
truy tố. Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 chỉ quy định Viện kiểm
sát cấp huyện chỉ được phép truy tố đối với tội phạm mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt từ bảy năm tù trở xuống và trừ một số tội theo quy định của
điều luật này. Quy định như vậy vừa bó hẹp nhiệm vụ của Viện kiểm sát cấp
huyện đồng thời cũng không phân hóa được loại tội phạm mà các cấp Viện
kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
Thứ hai, thẩm quyền theo đối tượng: Trong tố tụng hình sự Việt Nam
phân ra làm hai loại đối tượng riêng cho hai loại cơ quan tiến hành tố tụng đó là
quân sự và nhân dân vì những đặc thù riêng đối với lĩnh vực quân sự. Đây là lĩnh
52
vực đòi hỏi xử lý phải có cách thức xử lý tội phạm khác với là công dân bình
thường nên cần cũng cần những cơ quan tố tụng am tường về lĩnh vực này. Do
đó cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều là người thuộc quân
đội. Kế thừa những kinh nghiệm về xây dựng Tòa quân sự trong những năm
trước, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có thay đổi về nhóm đối tượng này.
Bên cạnh đó Theo Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh về tổ chức Viện kiểm
sát quân sự đã chỉ rõ chức năng của Viện kiểm sát quân sự:"Thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình
sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra đối với các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự". Vì vậy theo Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án Quân sự thì:
Các tòa án quân sự chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ
án mà bị cáo là:
1- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng,
quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra
tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu
với quân đội và những người khác được trưng tập làm nhiệm vụ
quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
2- Thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự
hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân đội;
3- Những người khác được pháp luật quy định thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự [45].
Nhưng sẽ khó khăn khi trong vụ án gồm cả các đối tượng thuộc thẩm
quyền của Tòa nhân dân và Tòa quân sự lúc đó sẽ có tranh chấp về mặt thẩm
quền mặc dù Điều 4 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự chỉ ra đó là:
Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự vừa có bị cáo hoặc tội phạm
53
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự
xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử riêng thì Tòa án
quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc
thẩm quyền của mình [45].
Nhưng khi nào có thể tách ra và khi nào Tòa quân sự xét xử toàn bộ
dẫn tới Viện kiểm sát truy tố toàn bộ vụ án hay tách ra để truy tố thì chưa có
văn bản hay quy định nào chỉ rõ mà chỉ dựa vào nhận thức của những người
tiến hành tố tụng.
Thứ ba, thẩm quyền theo lãnh thổ: Việc phân định truy tố theo không
gian nơi tội phạm xảy ra hoặc nơi tội phạm bị phát hiện chính là phân định
theo lãnh thổ. Điều này là thực tế khách quan cũng như đảm bảo việc truy tố
chính xác và dễ dàng Khoản 1, Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy
định: "Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm
được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác
nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm
quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra" [34], so với Bộ luật Tố tụng
hình sự 1988 đã làm rõ được về trường hợp khi tội phạm được thực hiện tại
nhiều nơi khác nhau thì sẽ xét xử tại đâu.
Đối với những trường hợp tội phạm xẩy ra trên lãnh thổ của Việt Nam
nhưng đang ở nước ngoài như máy bay hoặc tầu biển thì Điều 172 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 chỉ rõ là nơi "có sân bay hoặc bến cảng trở về đâu tiền
hoặc nơi tầu bay, tầu biển đó được đăng ký". Quy định này đã thay đổi cơ bản
so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 chỉ nói được chung chung thì Bộ
luật mới đã chỉ ra rõ được lãnh thổ đó là "Ngoài không phận hoặc lãnh hải
Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam". Quy định này
nhằm mục đích đảm bảo quyền tư pháp của nhà nước Công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được áp dụng trên tất cả phương tiện.
54
2.1.2.2. Tổng hợp quyền và nghĩa vụ
Để đến được giai đoạn truy tố, Viện kiếm sát phải giám sát giai đoạn
điều tra của Cơ quan điều tra. Đây là tiền đề cơ sở để đảm bảo Viện kiểm sát
sẽ truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật do vậy trong giai đoạn này tuy
không thuộc giai đoạn truy tố nhưng Viện kiểm sát cũng được nhà làm luật
trang bị cho nhiều quyền và nghĩa vụ để kiểm sát hoạt động điều tra cụ thể:
* Khởi tố vụ án hình sự
- Theo Khoản 3 Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự thì ngoài việc phải
gửi Quyết định khởi tố vụ án đến Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra còn phải
gửi kèm các tài liệu liên quan đến việc khởi tố. Điều này giúp cho Viện kiểm
sát có thể giám sát chặt chẽ ngay từ ban đầu hoạt động điều tra của Cơ quan
điều tra đảm bảo việc khởi tố là có đủ căn cứ hay không. Ngoài ra, đối với
quyết định không khởi tố cho Viện kiểm sát cũng cần gửi kèm các tài liệu liên
quan để làm cơ sở xác định căn cứ của Quyết định đó chứ không đơn thuần là
gửi Quyết định mang tính chất thông báo như Luật năm 1988.
- Căn cứ theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu phát hiện thấy
việc khởi tố của Cơ quan điều tra chưa chính chính xác, Viện kiểm sát có
quyền thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án. Đây là điểm mới hoàn
toàn mới so với so với Bộ luật năm 1988, đây là căn cứ để giúp giải quyết vụ
án một cách nhanh chóng chính xác so với Bộ luật năm 1988 không có cơ sở
để thực hiện hành vi tố tụng này.
- Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự đã bổ sung thêm một chức năng
cho Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố đó là thực hành quyền công tố bên
cạnh việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
* Điều tra
Trong giai đoạn điều tra của Cơ quan điều tra so với Luật hình sự năm
1988, Luật hiện hành có thêm hai điều luật mới đặt cơ sở nền tảng cho thẩm
quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra:
55
Thứ nhất: Điều 112: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện
kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến
hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra theo quy định của Bộ luật này;
3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra
viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên
có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê
chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không
phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;
5. Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án [34]
Thứ hai: Điều 113. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm
sát điều tra.
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
56
1. Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và
việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;
3. Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
4. Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp
luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài
liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ
trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi
phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
5. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các
biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật [34].
Đây chính là hai cơ sở lớn nhất để xác định những quyền năng mới
của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra so với Bộ luật năm 1988. Những
quyền năng này là cơ sở cho phép Viện kiểm sát định hướng điều tra cũng
như giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra phục vụ tốt hơn cho việc
truy tố của Viện kiểm sát sau này. Xây dựng được hai chế định nêu trên chính
là đã góp phần đưa Công tố gắn với điều tra, mở rộng thẩm quyền của Viện
kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra của Cơ quan điều tra hay cũng chính
là trong giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát.
Với hai điều luật nêu trên, Nhà nước đã giao cho Viện kiểm sát gần
như toàn bộ quyền năng trong việc chị đạo định hướng cũng như giám sát đối
với Cơ quan điều tra. Hơn thế nữa nếu Viện kiểm sát chỉ đạo mà Cơ quan
điều không thực hiện hoặc thực hiện chưa đạt yêu cầu thì Viện kiểm sát có thể
tự mình làm những việc đó vì nhiệm vụ của Viện kiểm sát phải chịu trách
nhiệm trong việc truy tố đúng người đúng tội. Đồng thời, Viện kiểm sát cũng
làm một nhiệm vụ rất quan trọng khác là xác định giới hạn xét xử cho Tòa án
bằng bản Cáo trạng. Những quyền năng này rất lớn được quy định cụ thể
trong các phần riêng của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng đều cho rằng Viện
57