1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Quan hệ quốc tế >

Danh mục tài liệu tham khảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662 KB, 203 trang )


2



Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lịch sử loài người, Ýt nhất từ thời cận đại, các nước lớn, các cường quốc

từng đóng vai trò quyết định trật tự thế giới và chi phối hệ thống các quan hệ quốc tế

(QHQT). Đường hướng vận động, phát triển của lịch sử thế giới phụ thuộc chủ yếu vào

tham vọng và lợi Ých chiến lược của các nước lớn, vào sự hoà hoãn hoặc chiến tranh

giữa các nước lớn. Thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên Xô và Mỹ đã tồn tại với tư cách hai

siêu cường đứng đầu hai hệ thống chính trị-xã hội đối lập, kiềm chế, chi phối lẫn nhau,

đồng thời chi phối đời sống chính trị thế giới và hệ thống các QHQT. Cuộc chiến tranh

lạnh kéo dài hơn bốn thập niên đó đã đặt cả thế giới vào tình trạng đối đầu căng thẳng

và thù địch.

Đến đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, do tác động của hàng loạt các nhân tố chủ

quan và khách quan, bên trong và bên ngoài, cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và

trật tự thế giới hai cực tan rã. Từ thời điểm này, cộng đồng các quốc gia- dân tộc vận

động và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử rất mới và rất khác thời kỳ chiến tranh

lạnh, vừa tạo ra những cơ hội, vừa đặt ra những thách thức mới đối với họ. Tình hình

thế giới sau chiến tranh lạnh diễn biến phức tạp, diện mạo một trật tự thế giới mới thay

cho trật tự hai cực đã tan rã vẫn chưa định hình. Sau mấy thập niên chiến tranh lạnh,

một mặt các nước lớn nhỏ đều muốn có môi trường quốc tế hoà bình, ổn định để phát

triển, nên nhìn chung đều điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại theo hướng tránh

đối đầu, tăng cường hợp tác, liên kết, hội nhập trên các tầng nấc khác nhau. Mặt khác,

các nước- trước hết là các nước lớn- cũng cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm giành giật

vai trò, vị trí có lợi nhất cho mình trong trật tự thế giới mới đang hình thành. Động thái

quan hệ giữa các nước lớn diễn ra hết sức phức tạp, chứa đầy những yếu tố khó lường.



3



Trong khi đó, các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn thời kỳ sau chiến tranh lạnh

vẫn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị- xã hội loài người.

Quan hệ giữa Nga và Mỹ- với tư cách là quan hệ giữa hai nước lớn- không nằm

ngoài tình hình chung đó. Song quan hệ Nga- Mỹ là cặp quan hệ có những nét đặc

thù. Không chỉ trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hiện nay quan hệ Nga- Mỹ, bất luận

những biến thiên của lịch sử, vẫn là cặp quan hệ chủ chốt, đóng vai trò rất quan trọng

trong hệ thống các QHQT. Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh,

dù theo hướng nào, cũng tác động lớn đến cục diện thế giới, đến đời sống chính trị và

an ninh thế giới. Tuy nhiên, quan hệ giữa Nga và Mỹ thời kỳ sau chiến tranh lạnh diễn

biến khá phức tạp, phản ánh rõ nét nhất, điển hình nhất thực trạng quan hệ giữa các

nước lớn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng quan hệ giữa hai nước

lớn Nga- Mỹ thực sự hữu Ých, thực sự cần thiết đối với tất cả các nước lớn nhỏ. Hơn

nữa, việc nghiên cứu đó không chỉ nhằm xác định diện mạo của một mối quan hệ cụ

thể giữa hai nước lớn, mà còn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận đặt ra

trong quan hệ giữa các nước lớn và giữa các nước lớn với các nước nhỏ nói chung

trong thời kỳ quá độ từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự thế giới mới.

Do điều kiện lịch sử đặc biệt của mình, hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam luôn nằm

trong toan tính chiến lược của các nước lớn như Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc, Nhật

Bản. Những nước lớn đó, đặc biệt là Liên Xô và Mỹ, đã có những tác động rất lớn, cả

hai chiều tích cực và tiêu cực, đến sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc của

nhân dân Việt Nam. Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô bị thủ

tiêu làm thay đổi tương quan lực lượng trên trường quốc tế từ trạng thái cân bằng sang

có lợi cho Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) phát triển. Quan hệ giữa Nga- đã

từng là đồng minh chiến lược của Việt Nam, và Mỹ- đã từng là đối thủ chiến lược của

Việt Nam, dù vận động, phát triển theo hướng nào (hoà hoãn, hợp tác hay căng thẳng,



4



xung đột) thì cũng đều ảnh hưởng đến nước ta với tư cách là một nước nhỏ, có lợi Ých

chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thực tiễn quan hệ giữa

Nga và Mỹ từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc cho thấy Việt Nam đã và sẽ còn phải

chịu sức Ðp và ảnh hưởng qua lại của quan hệ Nga- Mỹ. Thực tế này đặt ra nhiều vấn

đề lý luận và thực tiễn cấp thiết của chính sách đối ngoại Việt Nam trong quan hệ với

Nga và Mỹ. Việc nghiên cứu sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh và

ảnh hưởng của quan hệ đó đến Việt Nam không chỉ nhằm rót ra những bài học kinh

nghiệm cần thiết nhằm thúc đẩy quan hệ Việt- Nga và Việt- Mỹ, mà còn cung cấp

những luận cứ khoa học góp phần đưa phương châm đối ngoại cân bằng trong quan hệ

với các nước lớn vào thực tiễn hoạt động đối ngoại cho sát đúng với từng nước lớn cụ

thể.

Vì tất cả những lẽ đó, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Sự vận động của quan hệ

Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh và ảnh hưởng của quan hệ đó đến Việt Nam” làm đề tài

luận án.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Quan hệ giữa Nga và Mỹ không phải là một đề tài mới mẻ đối với giới nghiên cứu

ở nước ngoài, nhất là ở Nga và Mỹ. Các vấn đề như vai trò, vị thế quốc tế của các nước

lớn hiện nay và trong tương lai, chính sách đối ngoại của Nga và của Mỹ, quan hệ NgaMỹ trong các lĩnh vực chính trị-đối ngoại, kinh tế-thương mại, ... đã được Ýt nhiều đề

cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau của các tác giả nước ngoài. Trong các

công trình này, đáng chú ý là các cuốn sách: “Sự đảo lộn của thế giới địa-chính trị thế kỷ

XXI” của Maridôn Tuareno (Pháp); “Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu” của Lý Thực

Cốc (Trung Quốc); “Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc”; “Chuẩn bị cho thế kỷ

XXI” của Pôn Kennơđy (Mỹ); “Dự báo thế kỷ 21” của tập thể các tác giả Trung Quốc;

“Bàn cờ lớn” của Z. Brzezinski (Mỹ); “Sự biến đổi” của A.CôdưrÐp (Nga); “Nước Nga



5



hướng về Châu Á” của M. L. Titarencô, v.v.. Ngoài ra, nhiều bài viết đề cập đến các khía

cạnh cụ thể của đề tài đã được đăng tải trên các Ên phẩm chuyên ngành của Nga như các

tạp chí: Kinh tế thế giới và QHQT; Mỹ: Kinh tế, Chính trị, Tư tưởng; Sinh hoạt quốc tế;

Tư tưởng tự do; Báo Độc lập, v.v.. Trong các Ên phẩm này, đáng chú ý nhất là tờ tạp chí

rất có uy tín, chuyên nghiên cứu về Mỹ ở Nga, tờ “Mỹ: Kinh tế, Chính trị, Tư tưởng” (ra

đời từ tháng 1 năm 1970, đến tháng 1 năm 1999 đổi tên là “Mỹ- Canada: Kinh tế, Chính

trị, Văn hoá”). Đây là tờ tạp chí đã nhiều năm liền đăng tải các bài viết, các công trình

nghiên cứu của nhiều học giả có tiếng tăm, có bề dày nghiên cứu về Mỹ, về chính sách

đối ngoại của Mỹ, về quan hệ Nga- Mỹ, như S. Rôgốp, G. Trôfimencô, B. Krêmenhúc,

A. Ótkin, T. Saklêina, v.v.. Đặc biệt, các bài viết của S. Rôgốp đăng trên các số 3/1995,

10/1996, 11/1997, 2/1998, 7 và 8/1998, 2/2000 của Tạp chí trên và một số Ên phẩm khác

như Tạp chí Tư tưởng tự do, Báo Độc lập, đã phác họa những đường nét cơ bản, những

thăng trầm của quan hệ Nga- Mỹ qua các giai đoạn khác nhau thời kỳ sau chiến tranh

lạnh. Tác giả chỉ ra những kết quả hợp tác đã đạt được, cũng như những mâu thuẫn, xung

đột lợi Ých trong quan hệ Nga- Mỹ, nhấn mạnh ý đồ của Mỹ kiềm chế Nga khôi phục

ảnh hưởng chính trị- an ninh trên trường quốc tế.

Ngoài các công trình của các tác giả Nga, các bài nghiên cứu liên quan đến đề tài

của các tác giả Mỹ như M. Manđenbaum, Aron Leon, G. Duglac, ... cũng được đăng

tải trên các Ên phẩm chuyên ngành kể trên của Nga. Tuy nhiên, cách nhìn nhận, sự

đánh giá các vấn đề như chiến lược đối ngoại của Nga, của Mỹ, quan hệ Nga-Mỹ, v.v.

không phải luôn luôn có sự thống nhất giữa các tác giả Nga, giữa các tác giả Mỹ với

nhau, cũng như giữa các tác giả Nga và các tác giả Mỹ. Thực tế này đòi hỏi nghiên

cứu sinh phải biết kế thừa có chọn lọc công trình nghiên cứu của các học giả nước

ngoài, và chỉ trên cơ sở xem xét các sự vật, hiện tượng lịch sử một cách khách quan,



6



chân thực và bằng phương pháp luận mácxít thì mới có thể đưa ra sự đánh giá xác

đáng về những vấn đề thuộc đề tài nghiên cứu.

Ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu tập thể và cá nhân đã Ýt

nhiều đề cập đến chiến lược, chính sách đối ngoại của Mỹ, của Nga, quan hệ Mỹ- Việt,

quan hệ Nga-Việt. Trong số các công trình này, đáng chú ý là các bài viết, sách tham

khảo, đề tài khoa học của một số cơ quan nghiên cứu các vấn đề quốc tế như: Trung

tâm nghiên cứu Châu Âu, Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Học viện QHQT (Bộ ngoại

giao), Viện QHQT (Học viện CTQG Hồ Chí Minh), các tạp chí chuyên ngành về

QHQT, v.v.. Cố học giả Lê Bá Thuyên với đề tài luận án PTS Lịch sử “Chiến lược toàn

cầu của Mỹ và tác động của nó trong QHQT hiện nay” (bảo vệ năm 1995); cuốn sách

“Hoa Kỳ: cam kết và mở rộng”, NXB KHXH, Hà Nội, 1997; cũng như một số bài viết

của tác giả về chiến lược, chính sách đối ngoại của Mỹ đăng trên các tạp chí chuyên

ngành là những công trình có tính chất chuyên sâu nhất về đề tài này. Còn việc nghiên

cứu quan hệ Nga-Mỹ ở Việt Nam thì thực sự chỉ mới ở giai đoạn ban đầu, số lượng các

bài viết về chủ đề này rất hạn chế. Hơn nữa, các công trình được công bố về quan hệ

Nga-Mỹ mới chỉ dừng lại ở việc mô tả thực trạng quan hệ Nga- Mỹ ở một vài lĩnh vực,

chưa có tính hệ thống và khái quát.

Chủ đề quan hệ Việt- Nga và Việt- Mỹ giành được sự quan tâm nhiều hơn từ các

nhà nghiên cứu Việt Nam. Trong số các công trình nghiên cứu về các chủ đề này,

đáng chú ý là các cuốn sách “Quan hệ kinh tế Việt Nam- LB Nga: Thực trạng và triển

vọng” (NXB KHXH, Hà Nội, 1995); “Về mối quan hệ giữa Việt Nam- LB Nga trong

giai đoạn hiện nay” (NXB CTQG, Hà Nội, 1997); “Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hoa

Kỳ” (NXB Thế giới, Hà Nội, 2000). Đây là những công trình công phu của các tập

thể tác giả và cá nhân về sự vận động khá phức tạp của các cặp quan hệ Nga-Việt và

Mỹ-Việt từ sau khi Liên Xô tan rã. Song do phạm vi nghiên cứu đặt ra, nên quan hệ



7



Nga-Việt và Mỹ-Việt chưa được xem xét từ góc độ quan hệ giữa các nước lớn và một

nước nhỏ trong bối cảnh thế giới mới sau chiến tranh lạnh. Đặc biệt ảnh hưởng của

quan hệ Nga- Mỹ với tư cách là quan hệ giữa hai nước lớn, đến Việt Nam, với tư cách

là một nước nhỏ, trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, hầu như chưa được nghiên cứu cả

ở các nước ngoài cũng như ở Việt Nam.

Tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài luận án ở nước ngoài và

Việt Nam cho thấy sự cần thiết phải có một công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ

thống và sâu sắc hơn về đề tài này.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm rõ thực chất sự vận động của

quan hệ giữa LB Nga và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trên cơ sở đó nêu lên ảnh hưởng của

mối quan hệ này đến Việt Nam trong bối cảnh thế giới đã và đang thay đổi thời kỳ sau

chiến tranh lạnh.

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận án là:

- Khái quát lịch sử quan hệ Xô- Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh, cũng như sự điều

chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại của Nga và của Mỹ trong thập niên 90.

- Phân tích thực trạng vận động của quan hệ giữa Nga và Mỹ trong các lĩnh vực

chủ yếu là chính trị- an ninh, kinh tế- thương mại, khoa học- kỹ thuật, đồng thời nêu

ra một số dự báo về triển vọng của mối quan hệ này.

- Phân tích ảnh hưởng của quan hệ Nga- Mỹ đến Việt Nam trong sự tương tác

giữa các cặp quan hệ của tam giác Nga- Mỹ- Việt, từ đó nêu một số kiến nghị nhằm

thực hiện thành công chính sách đối ngoại với các nước lớn nói chung, với Nga và

Mỹ nói riêng.

Phạm vi nghiên cứu của luận án:



8



- Về mặt thời gian: Sự vận động của quan hệ Nga- Mỹ và ảnh hưởng của quan hệ

Nga- Mỹ đến Việt Nam được nghiên cứu chủ yếu từ sau khi Liên Xô tan rã đến cuối

thập niên 90 của thế kỷ 20.

- Về mặt nội dung: Luận án đặt trọng tâm ở việc phân tích thực trạng quan hệ

Nga- Mỹ trong thập niên 90 và triển vọng của mối quan hệ đó trước hết trên lĩnh vực

chính trị- an ninh.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận mácxít. Trong

quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận án quán triệt phương pháp luận

của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời đại và quan hệ giữa các quốc gia- dân tộc; về hoà

bình và cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau; tư

tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, v.v.. Luận án bám sát các quan điểm

đánh giá tình hình quốc tế và khu vực của Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện

trong các văn kiện từ Đại hội VI đến nay, coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý

luận, định hướng tư tưởng trong nghiên cứu một đề tài vào loại khó và nhạy cảm.

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là phương pháp lịch sử và phương

pháp logic. Các phương pháp khác như phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu,

thống kê, v.v. được sử dụng như là những phương pháp hỗ trợ cần thiết cho hai

phương pháp chủ yếu nêu trên.

5. Những điÓm mới về khoa học của luận án

- Nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống sự vận động của quan hệ Nga-Mỹ từ

sau khi Liên Xô tan rã đến cuối thập niên 90, trên cơ sở đó bước đầu làm rõ tính chất

quan hệ giữa các nước lớn và vai trò của các nước lớn nói chung trong thời kỳ quá độ

từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự thế giới mới.



9



- Luận án đưa ra một số đánh giá bước đầu về ảnh hưởng của quan hệ Nga- Mỹ

đến Việt Nam, từ đó nêu một số kiến nghị nhằm xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa

Việt Nam với từng nước lớn cụ thể.

- Góp phần luận giải và làm sáng tỏ thêm chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,

phương châm cân bằng trong quan hệ với các nước lớn của Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy

và học tập, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài danh mục các công trình khoa học của tác giả, tài liệu tham khảo, luận án

có ...... trang, gồm phần mở đầu, 3 chương với 8 tiết và phần kết luận.



Chương 1

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ

SAU CHIẾN TRANH LẠNH

Chiến tranh lạnh, theo định nghĩa của các nhà ngôn ngữ học, là “Tình trạng căng

thẳng và không khí thù địch của một nước này gây ra đối với một nước khác”. Song

cuộc chiến tranh lạnh mà giới cầm quyền Mỹ phát động sau chiến tranh thế giới thứ hai

và kết thúc vào đầu thập niên 90 là cuộc chiến tranh chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.

Tình trạng đối đầu căng thẳng và thù địch giữa hai cường quốc đứng đầu thế giới- Liên

Xô và Mỹ- đã chi phối toàn bộ hệ thống QHQT và là nguyên nhân gây nên hàng loạt

cuộc “chiến tranh nóng” cục bộ. Hiện nay chiến tranh lạnh xét trên bình diện toàn cầu

đã kết thúc, song ở nơi này nơi kia vẫn có biểu hiện tiếp diễn, và hệ thống QHQT hiện

nay không khỏi không chịu những hệ quả của nó. Quan hệ Nga-Mỹ sau chiến tranh

lạnh là mối quan hệ tiếp nối quan hệ Xô-Mỹ trước đây, tất nhiên tính chất quan hệ khác



10



hơn nhiều. Do vậy, trước khi khảo sát quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh, chúng tôi

trình bày khái lược lịch sử quan hệ Xô-Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh.



1.1. Khái lược lịch sử quan hệ Xô - Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh

Tháng Mười năm 1917, cuộc Cách mạng “mười ngày rung chuyển thế giới”

thành công ở nước Nga, cho ra đời một Nhà nước kiểu mới- Cộng hoà XHCN Xô viết

Liên bang Nga. Ngay từ sau Cách mạng tháng Mười, Cộng hoà XHCN Xô viết LB

Nga và sau đó là Liên bang CHXHCN Xô viết đã kiên trì cuộc đấu tranh nhằm thiết

lập quan hệ chính trị và kinh tế-thương mại với Mỹ nói riêng, các nước khác nói

chung, theo nguyên tắc được V.I.Lênin khởi xướng về cùng tồn tại hoà bình giữa các

nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Song nếu như từ những năm 1924 - 1925,

nhiều nước, trong đó có các nước TBCN lớn như Anh, Pháp, Italia đã chÝnh thức

công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, thì Mỹ là cường quốc duy

nhất trong thập niên 20 không thiết lập quan hệ với Liên Xô. Phải trải qua một quá

trình đấu tranh lâu dài của chính quyền Xô viết, và do tác động của rất nhiều nhân tố

khác nữa, mà tới tháng 11 năm 1933, Liên bang Xô viết và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Cũng từ đây bắt đầu một giai đoạn mới

trong quan hệ ngoại giao giữa hai cường quốc, về sau là hai siêu cường đứng đầu hai

hệ thống chính trị- xã hội đối lập trong QHQT thế kỷ XX.

Từ khi chính thức công nhận lẫn nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ

Xô - Mỹ vận động hoàn toàn không đơn giản trong tất cả các lĩnh vực chính trị-quân

sự, kinh tế- thương mại, văn hoá- khoa học- công nghệ.

1.1.1. Quan hệ Xô- Mỹ trong lĩnh vực chính trị- quân sự

Vào cuối những năm 30, trong bầu không khí nóng bỏng của QHQT do việc hình

thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và do bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nhìn chung

Mỹ thực hiện “chính sách trung lập”, “không can thiệp”, thực chất là âm mưu mượn



11



tay người khác đánh nhau để đứng giữa trục lợi. Chính H.Truman (lúc đó là Thượng

nghị sĩ, đến 4. 1945 là Tổng thống Mỹ), ngay sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên

bố trắng trợn: “Nếu chóng ta thấy Đức sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Nga, còn nếu

Nga sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Đức, và như vậy, mặc cho họ giết hại lẫn nhau

càng nhiều càng tốt” [113, tr.435]. Chỉ khi phát xít Đức, Italia đã thôn tính nhiều nước

ở Châu Âu, Châu Phi, còn Nhật đánh chiếm Trân Châu, gây cho Mỹ những tổn thất

nặng nề, lợi Ých và an ninh Mỹ bị đe dọa, thì Mỹ mới tham chiến, cùng Liên Xô và

một số nước khác thành lập Mặt trận đồng minh chống phát xít (1.1.1942). Sau đó Mỹ

và Liên Xô ký Hiệp ước Xô-Mỹ về những nguyên tắc tương trợ trong quá trình chiến

tranh chống xâm lược (11.7.1942). Những hành động đối ngoại này của hai nước đã

góp phần tạo những biến chuyển tích cực, có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết và

hợp tác chiến đấu giữa Liên Xô và Mỹ nói riêng, các lực lượng chống phát xít nói

chung trên toàn thế giới để đánh bại chủ nghĩa phát xít.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với chiến thắng của Liên Xô và các

nước trong khối Đồng minh đã mở ra một thời kỳ mới trong QHQT hiện đại, dẫn đÕn

những biến chuyển sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới. Trong khối Đồng minh

chống phát xít, Mỹ là nước duy nhất không những không bị chiến tranh tàn phá, mà

còn lợi dụng được chiến tranh để làm giàu nhanh chóng. Với sức mạnh kinh tế đi đôi

với sức mạnh quân sự, nhất là sự độc quyền vũ khí hạt nhân, Mỹ trở thành một cường

quốc hùng mạnh. Đây là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tham vọng bá chủ

toàn cầu của Mỹ. Tổng thống Mỹ H.Truman trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 4 năm

1946 đã khẳng định: “Ngày nay Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh, không có một quốc

gia nào mạnh hơn... Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế chúng ta có nghĩa vụ

nắm quyền lãnh đạo thế giới...” [89, 119].



12



Tuy nhiên, tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ đã gặp phải những cản trở rất lớn.

Vốn là nước đi tiên phong trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, Liên Xô

bước ra khỏi Đại chiến thế giới lần thứ hai với uy tín quốc tế đã tăng cao. Nhà nước

XHCN đầu tiên trên thế giới đã tỏ rõ sức mạnh của mình trên thực tế, trở thành trụ cột

của phong trào cách mạng thế giới. Ngoài Liên Xô, một loạt Nhà nước dân chủ nhân

dân ở Đông Âu và Châu Á đã được thành lập, lựa chọn con đường đi lên CNXH. Hệ

thống XHCN thế giới dần dần được hình thành và củng cố. Cùng với sự lớn mạnh của

hệ thống XHCN thế giới, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các

nước thuộc địa và TBCN cũng phát triển mạnh, tạo thành những dòng thác lớn tấn

công vào dinh luỹ của hệ thống ĐQCN thế giới. Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ

hai, tương quan lực lượng trên trường quốc tế thay đổi không có lợi cho Mỹ.

Để thủ tiêu những lực cản đó (mà lực cản lớn nhất là Liên bang Xô viết), Mỹ đã

dùng mọi phương sách, biện pháp, thủ đoạn ngoại giao để, thứ nhất, lôi kéo, tập hợp

lực lượng chống lại Liên Xô và ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS. Thứ hai, Mỹ bắt đầu

công khai thực hiện một chính sách đối ngoại thù địch với Liên Xô trong tất cả các

lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực chính trị-đối ngoại.

Trên cơ sở một học thuyết do G.Kennan, Chủ tịch uỷ ban vạch chính sách đối

ngoại của Chính phủ, cựu đại sứ Mỹ tại Liên Xô đề ra, Tổng thống Mỹ H.Truman

tháng 3 năm 1947 đã cho ra đời một học thuyết đối ngoại mang tên “Học thuyết

Truman”. Nội dung cơ bản của Học thuyết Truman là Mỹ phải đảm trách sứ mệnh lãnh

đạo thế giới tự do, phải bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự để giúp đỡ, trước mắt là

Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, sau nữa là các dân tộc trên thế giới chống lại sự đe doạ của chủ

nghĩa cộng sản (CNCS). Nếu G.Kennan được coi là “kiến trúc sư” cho chiến lược

“Chiến tranh lạnh”, thì diễn văn của thủ tướng Anh W.Sơcsin tại Phuntơn ngày

5.3.1946 và Học thuyết Truman được coi là châm ngòi nổ cho cuộc “chiến tranh lạnh”



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (203 trang)

×