1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Quan hệ quốc tế >

ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN HỆ NGA - MỸ ĐẾN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662 KB, 203 trang )


142



3.1.1. Quan hệ giữa các quốc gia- dân téc trong hệ thống quan hệ quốc tế

sau chiến tranh lạnh

Sự liên hệ, tương tác giữa các quốc gia- dân tộc trong cộng đồng quốc tế là hiện

tượng phổ biến và khách quan. Tuy nhiên, mức độ, tính chất và phạm vi của sự tương

tác đó trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể rất khác nhau, phụ thuộc vào

hàng loạt các yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và quốc tế.

Về mặt khách quan, cộng đồng các quốc gia- dân tộc và từng quốc gia- dân tộc

trên thế giới sau chiến tranh lạnh đang tồn tại và vận động trong diều kiện, hoàn cảnh

lịch sử khá đặc biệt. Cuộc cách mạng khoa học- công nghệ tiếp tục có sự phát triển

vượt bậc, với những thành tựu kỳ diệu, dẫn tới sự bùng nổ thông tin, tri thức, công

nghệ. Toàn cầu hoá trở thành một xu thế khách quan của đời sống QHQT, tác động

đến tất cả các nước và quan hệ giữa họ, làm gia tăng rõ rệt tính tuỳ thuộc lẫn nhau

giữa các quốc gia- dân tộc. Sự kết thúc chiến tranh lạnh và quan hệ đối đầu ĐôngTây chuyển sang quan hệ đối thoại, đối tác, hợp tác, liên kết trên nhiều tầng nấc, cũng

góp phần nhất định trong việc làm cho xu hướng hoà bình, ổn định, hợp tác để phát

triển trở thành xu hướng vận động nổi trội của thế giới ngày nay. Do vậy, về mặt chủ

quan, nhìn chung các nước trong cộng đồng quốc tế đều muốn mở rộng quan hệ đối

ngoại, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, nhằm giành cơ hội thuận

lợi để phát triển đất nước mình. Trong QHQT, yếu tố ý thức hệ được đẩy xuống vị trí

thứ yếu, còn lợi Ých quốc gia- dân tộc được đặt lên hàng đầu. Những điều kiện, hoàn

cảnh lịch sử đó đã dẫn tới thực tế là quan hệ đối ngoại của các nước ngày càng được

mở rộng. Điều này kéo theo sù gia tăng mức độ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các

chủ thể QHQT sau chiến tranh lạnh.

Tuy nhiên, vị thế quốc tế của các nước rất khác nhau, nên vai trò, vị trí và ảnh

hưởng của các nước trong hệ thống QHQT cũng rất khác nhau. Mức độ ảnh hưởng



143



của nước này hay cặp quan hệ này đến nước khác là không ngang bằng so với mức độ

ảnh hưởng trở lại của nước đó. Đối với các nước lớn, các cường quốc, thì trong lịch

sử nhân loại, họ đã nhiều lúc, nhiều thế kỷ giữ vai trò, vị trí quyết định trật tự thế giới

và chi phối hệ thống các QHQT. Chiến tranh hay hoà bình, hoà hoãn, quan hệ đối

kháng hay liên minh giữa các nước lớn thường đóng vai trò là nhân tố chi phối chủ

yếu tới số phận các quốc gia- dân tộc nhỏ yếu. Sự thật lịch sử cho thấy, bất kể các

nước lớn quan hệ với nhau như thế nào đi nữa, các nước nhỏ vẫn thường phải chịu

thiệt thòi hơn, hoặc thậm chí trở thành vật hy sinh cho tham vọng, cho lợi Ých của các

nước lớn.

Không chỉ chiến tranh, mà cả sự hoà hoãn, thoả hiệp của các nước lớn nhiều khi

cũng gây nên những đau thương, mất mát không kể xiết cho các nước, các dân tộc

nhỏ yếu. Lịch sử thế giới thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng minh điều đó. “Hoà hoãn

giữa các nước lớn trong thời kỳ chiến tranh lạnh thường diễn ra trên lưng các nước

thứ ba... Các nước nhỏ, nhất là các nước đang đấu tranh cho nền độc lập của mình

thường là nạn nhân của sự hoà hoãn giữa các nước lớn.” [75].

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực tan rã, trong quá trình hình

thành trật tự thế giới mới, vai trò của các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn với

nhau vẫn là nhân tố rất quan trọng, có tính chất chủ đạo, trong nhiều trường hợp cụ

thể còn là nhân tố quyết định khi giải quyết các công việc quốc tế. Các nước lớn cũng

đang ra sức tận dụng những biến đổi của trật tự thế giới để xây dựng và củng cố, nâng

cao vị thế quốc tế của mình trong tương quan lực lượng trên bàn cờ chính trị- kinh tế

thế giới. Có nước muốn biến mình thành một cực duy nhất như Mỹ, có nước muốn trở

thành một cực độc lập, bình đẳng với các cực khác trong một thế giới đa cực như

Nga, Trung Quốc, ... Song điều rất đáng chú ý là sự hình thành các “quan hệ đối tác

chiến lược” giữa các nước lớn. Ở khu vực CA - TBD, ngoài quan hệ liên minh Mỹ-



144



Nhật từ thời chiến tranh lạnh hiện vẫn đang được củng cố, đã xuất hiện những cặp

quan hệ đối tác chiến lược rất quan trọng như Nga- Mỹ, Nga- Trung, Trung- Mỹ, mới

đây là Nga- Ên Độ. Điều quan trọng hơn là các nước lớn sau chiến tranh lạnh cam kết

không coi nhau là kẻ thù, mà tăng cường tiếp xúc, trao đổi, đối thoại để giải quyết các

vấn đề hoặc còn tranh chấp, hoặc cần hợp tác trong quan hệ song phương và trên

trường quốc tế, ở khu vực. Những đường dây nóng giữa nguyên thủ quốc gia một số

nước lớn đã được thiết lập, chứng tỏ mức độ, hình thức quan hệ giữa họ đã rất khác

trước, chú trọng hơn đến nội dung và hiệu quả quan hệ.

Mặc dù vậy, tất cả những điều nêu trên không chứng minh rằng quan hệ giữa các

nước lớn đã hoàn toàn mang tính chất hợp tác, xây dựng, tính chất bình đẳng, coi

trọng lợi Ých của nhau. Trong các nước tuyên bố quan hệ đối tác chiến lược với nhau,

không nước nào không đặt lợi Ých dân tộc mình lên trên hết, thậm chí còn coi

thường, xem nhẹ lợi Ých của đối tác lép vế. Quan hệ đối tác chiến lược Nga- Mỹ là

một ví dụ điển hình. Do đó, quan hệ giữa các nước lớn sau chiến tranh lạnh có xu thế

tiếp tục tập hợp lực lượng với tính chất vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh với

nhau, nhưng nhìn chung chưa ổn định.

Song rõ ràng hiện nay và Ýt nhất trong tương lại gần, không có nước lớn nào hay

cặp quan hệ giữa hai nước lớn nào có thể đóng vai trò chi phối toàn bộ hệ thống

QHQT, có thể áp đặt ý chí, luật lệ và giá trị của mình lên các nước khác, dù là các

nước nhỏ yếu hơn. Như đã trình bày ở các chương trên, một nước Mỹ siêu cường thế

giới duy nhất thời kỳ sau chiến tranh lạnh, với những “Chiến lược an ninh quốc gia”

thể hiện tham vọng thâu tóm thế giới trong trật tự thế giới đơn cực, cũng khó mà biến

tham vọng thành hiện thực. Chẳng hạn, Mỹ thực tế đã thất bại trong việc bao vây, cô

lập, cấm vận Cuba và Irắc. Những chuyến bay viện trợ nhân đạo, chuyến thăm chính

thức tới Irắc hoặcviệc nối lại quan hệ với Irắc của nhiều nước lớn nhỏ trong cộng



145



đồng quốc tế; sự trụ vững của nước Cuba bé nhỏ, nước Cuba XHCN ở Tây bán cầu đã

chứng tỏ sự thất bại đó của siêu cường Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Chính sách bao vây, cô lập, cấm vận của Mỹ thất bại là do sau chiến tranh lạnh,

tương quan lực lượng và sự tương tác giữa các chủ thể trong hệ thống QHQT đã thay

đổi. Có nhiều nhân tố mới xuất hiện sau chiến tranh lạnh tác động đến sự thay đổi đó,

mà một trong số các nhân tố như vậy là sự gia tăng vai trò và ảnh hưởng của các nước

vừa và nhỏ, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị - đối ngoại. Nhìn chung, thông qua các

diễn đàn, các tổ chức quốc tế khác nhau, các nước vừa và nhỏ ngày càng đóng vai trò

chủ động, tích cực hơn trên trường quốc tế và ở cấp khu vực,. Tỷ trọng của các nước

vừa và nhỏ, hay tổ chức liên kết các nước vừa và nhỏ như ASEAN ngày càng lớn hơn

trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn và các nước không lớn trên bàn cờ

chính trị quốc tế sau chiến tranh lạnh. Nói theo cựu tổng thống Philippin Phiđen

Ramốt, thì các nước tầm trung không còn là những khán giả thụ động trước những tác

động qua lại giữa các nước lớn, mà đã là những “diễn viên đáng kể” [Xem: 54].

Thế nhưng các nước nhỏ rõ ràng có vị thế quốc tế yếu hơn và thường phải chịu

ảnh hưởng lớn hơn so với khả năng ảnh hưởng trở lại đến các nước lớn, là những

nước có vị thế quốc tÕ lớn hơn, cao hơn. Vị thế quốc tế của một nước được quyết

định chủ yếu bởi sức mạnh quốc gia tổng hợp của nước đó. Theo giáo sư, tiến sỹ sử

học Mỹ Pôn Kennơđy thì “sức mạnh của một quốc gia- dân tộc tuyệt nhiên không chỉ

cốt ở lực lượng vũ trang, mà còn ở các nguồn lực kinh tế và kỹ thuật; ở tài khéo léo,

nhìn xa thấy trước và ở quyết tâm của chính sách ngoại giao; ở hiệu lực của tổ chức

xã hội và chính trị của quốc gia đó. Trước hết nó bao gồm bản thân quốc gia đó:

những con người với tài năng, nghị lực, tham vọng, kỷ luật, sáng kiến của họ ....” [47,

tr.70]. Rõ ràng Pôn Kennơđy rất coi trọng vai trò của nguồn lực con người trong việc

tạo nên sức mạnh tổng hợp của một nước, song như chính ông đã khẳng định, nguồn



146



lực con người liên quan chặt chẽ, hữu cơ với các nguồn lực khác: quân sự, kinh tế, kỹ

thuật, chính trị, ngoại giao. Quốc gia nào tạo lập được sức mạnh tổng hợp từ các

nguồn lực này lớn hơn so với quốc gia khác thì có vị thế quốc tế cao hơn.

Trong tương quan lực lượng như vậy, các nước nhỏ có sức mạnh tổng hợp yếu

hơn so với các nước lớn, các cường quốc. Điều đáng nói ở đây là các nước lớn thường

lợi dụng các ưu thế của họ để gây sức Ðp kinh tế, chính trị- đối ngoại, quân sự- an

ninh hoặc áp đặt giá trị của mình lên các nước nhỏ yếu. Còn các nước nhỏ thường

phải chịu sức Ðp lớn hơn, phải ra sức tìm những phương sách khác nhau để tăng

cường sức mạnh quốc gia, để nâng cao vị thế quốc tế của mình trong tương quan lực

lượng, tương quan ảnh hưởng giữa các nước lớn nhỏ.

Việt Nam là một nước có diện tích và quy mô dân số vào loại trên trung bình so

với các nước khác trên thế giới, nhưng tiềm lực kinh tế thì rất nhỏ bé, GDP năm 2000

là hơn 30 tỷ USD so với 42.000 tỷ GDP toàn cầu, nghĩa là chỉ chiếm 1/1555 GDP

toàn cầu. Trong lịch sử hơn nửa thế kỷ qua, quan hệ giữa Việt Nam và các nước lớn

không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Trong bối cảnh lịch sử sau chiến tranh lạnh, Việt

Nam đang xúc tiến quan hệ nhiều mặt với tất cả các nước lớn, song không phải trong

mọi mối quan hệ đều không có vấn đề gì đặt ra.

Ảnh hưởng của quan hệ giữa Nga và Mỹ- với tư cách là quan hệ giữa hai cường

quốc thế giới, đến Việt Nam- với tư cách là một nước không lớn, nằm trong tương

quan ảnh hưởng chung giữa các nước lớn nhỏ trong hệ thống QHQT sau chiến tranh

lạnh. Không riêng gì quan hệ Nga- Mỹ, mà các nước lớn khác và quan hệ giữa họ

cũng đã, đang và sẽ còn ảnh hưởng, cách này hay cách khác, trực tiếp hay gián tiếp,

nhiều hay Ýt đến Việt Nam. Do vậy, về phần mình, dù muốn hoặc không, dù nhiều

hoặc Ýt, Việt Nam vẫn phải chịu sức Ðp của các nước lớn và ảnh hưởng qua lại giữa

họ, bất luận là họ hoà hoãn, hợp tác, liên minh hay căng thẳng, đối địch, đối đầu.



147



Nhưng quan hệ giữa Nga và Mỹ cũng như ảnh hưởng của quan hệ Nga- Mỹ đến Việt

Nam có những nét đặc thù.

3.1.2. Ảnh hưởng của quan hệ Nga - Mỹ đến Việt Nam về mặt chính trịngoại giao.

Trước hết cần nhắc lại rằng quan hệ Nga- Mỹ là sự tiếp nối quan hệ Xô- Mỹ

trước đây, nhưng khác về chất so với quan hệ Xô- Mỹ. Một trong những đặc điểm của

cục diện đối đầu Xô- Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh là hai siêu cường đều ra sức tập hợp

lực lượng, thiết lập nên những quan hệ đồng minh, liên minh song phương hoặc đa

phương với nhiều nước trên thế giới, hoặc Ýt ra cũng ngăn chặn không để cho nước

này hay nước kia đi theo đối thủ của mình, chống lại mình. Tuy nhiên, khách quan mà

nói, sự tập hợp lực lượng của Liên Xô mang ý nghĩa tích cực đối với phong trào cộng

sản, công nhân và giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Sự giúp đỡ to lớn và nhiều

mặt của Liên Xô đã tạo thêm sức mạnh tinh thần và vật chất cho phong trào đấu tranh

giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Sự giúp

đỡ của Liên Xô đã góp phần không nhỏ trong việc loài người làm nên một trong

những kỳ tích hàng đầu của thế kỷ 20 là thủ tiêu chủ nghĩa thực dân và hệ thống thuộc

địa của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới. Về phía Mỹ, thì quá trình tập

hợp lực lượng của Mỹ đã gây nên một cuộc chiến tranh lạnh và sự chạy đua vũ trang

cực kỳ tốn kém, nguy hiểm, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho cộng đồng quốc

tế.

Với tư cách là một nước có vị trí địa- chính trị, địa- chiến lược quan trọng ở

Đông Nam Á, Việt Nam luôn là mục tiêu để các nước lớn, trong đó có Mỹ và Liên Xô

trước đây giành ảnh hưởng. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam thực hiện thành công cuộc

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lựa chọn con đường độc lập dân tộc, dân chủ và



148



CNXH, kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc và thực dân, Việt Nam trở

thành một trong những tiêu điểm của sự đối kháng toàn cầu Xô- Mỹ.

Về phía Liên Xô, thì ngay từ sau Cách mạng Tháng Mười thành công, Đảng và

Nhà nước Liên bang Xô viết đã bắt đầu giúp đào tạo nhiều cán bộ trung kiên và tài

giỏi cho cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành

cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, Liên Xô, Trung

Quốc cũng như các nước XHCN khác đã công khai và chính thức thiết lập quan hệ

ngoại giao với Việt Nam (tháng 1 năm 1950), khẳng định địa vị pháp lý chính đáng

của chính thể Cộng hoà dân chủ nhân dân lần đầu tiên được xác lập ở Việt Nam. Đây

là sự kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cục diện kháng chiến chống

xâm lược trong giai đoạn quyết định của nhân dân Việt Nam. Đánh giá ý nghĩa của sự

kiện lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thắng lợi chính trị đó sẽ là cái đà cho

những thắng lợi quân sự sau này” [69, tr. 82].

Kể từ thời điểm lịch sử này, quan hệ Xô- Việt kiểu mới được chính thức xác lập.

Liên Xô và Việt Nam là đồng minh chiến lược trên mặt trận chống đế quốc thực dân

và chống các lực lượng thù địch với CNXH. Việt Nam trở thành tiền đồn của CNXH

ở khu vực Đông Nam Á, quan hệ với Liên Xô có lúc còn được coi là hòn đá tảng

trong các QHQT của Việt Nam. Trên thực tế, sự ủng hộ, giúp đỡ nhiều mặt, quý báu

và có hiệu quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đã góp phần không nhỏ vào

thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và cho việc xây

dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực cho CNXH của nhân dân Việt

Nam.

Đối với Mỹ, thì ngoại trừ một thời gian ngắn trong Chiến tranh thế giới thứ hai có

sự hợp tác Mỹ - Việt nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít, tính chất xuyên suốt lịch sử

quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam là sự đối đầu, đối kháng giữa nước đi xâm lược và nước



149



chống xâm lược. Quan hệ Việt- Mỹ là mối quan hệ giữa hai quốc gia đối đầu trực tiếp

với nhau trong một cuộc chiến tranh mang tầm vóc thời đại, là biểu hiện rõ nét của

cuộc đấu tranh giai cấp giữa CNTB và CNXH. Tính chất đối kháng về ý thức hệ, về thể

chế chính trị- xã hội giữa một nước đế quốc TBCN đầu sỏ và một nước nhỏ, lựa chọn

con đường tiến lên CNXH đã chi phối toàn bộ quan hệ Mỹ- Việt, tạo nên đặc thù cơ

bản của mối quan hệ này, làm cho nó khác hẳn các quan hệ đối ngoại khác của Việt

Nam. Nếu sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô góp thêm sức mạnh cho nhân dân Việt Nam

giành chiến thắng trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, thì cuộc chiến tranh

xâm lược của Mỹ đã gây nên bao đau thương, tang tóc cho nhân dân ta. Chính các học

giả Mỹ cũng phải thừa nhận rằng cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã “để lại một

nước Việt Nam bị tàn phá với hàng triệu người bị tàn tật và bị giết. Hoa Kỳ đã tiêu phí

hơn 150 tỷ USD vào một nỗ lực vô Ých với cái giá là 58.000 sinh mạng người Mỹ...

Cuộc chiến tranh đã khiến nhiều người Mỹ đặt câu hỏi về những hành động của dân tộc

họ và về những giá trị mà dân tộc đó gắng sức giữ gìn...” [13, tr.375- 376].

Do tính chất quan hệ Xô- Mỹ, Xô- Việt, Mỹ- Việt như vậy, trong đó Liên XôViệt Nam là đồng minh đứng trên một chiến tuyến, còn Mỹ là kẻ thù của hai nước,

đứng ở chiến tuyến đối lập, nên đời sống chính trị, quan hệ đối ngoại và an ninh- quốc

phòng của nước ta chịu tác động trực tiếp và rất nhạy cảm của quan hệ Xô- Mỹ. Chẳng

hạn, nhằm ngăn cản bước tiến của cách mạng Việt Nam vốn được Liên Xô hậu thuẫn,

Mỹ đã có những hoạt động phá hoại, cản trở việc ký kết Hiệp định hoà bình Giơnevơ

năm 1954; đã xây dựng một chế độ thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, biến một nửa nước

Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ. Sau chiến tranh lạnh, một số học giả Phương

Tây vẫn khẳng định rằng, “ Nếu không có sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam thì sự

bành trướng của Cộng sản- cả Liên Xô và Trung Quốc- có thể lan rộng hơn ra Nam và

Đông Á, bao gồm sự kiểm soát cả Inđônêxia, Thái Lan và có khả năng cả Ên Độ...”



150



[65, tr.313]. Do đó, Đảng ta nhận định : “Chiến tranh xâm lược Việt Nam là mét bộ

phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ” [4, tr.23].

Không chỉ tình trạng đối đầu, mà sự hoà hoãn hay cải thiện quan hệ Xô- Mỹ

cũng ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Những hoà hoãn Xô- Mỹ (và Trung- Mỹ) trong

thập niên 70 đã tác động xấu đến cuộc đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước

của nhân dân Việt Nam, nhất là trên mặt trận chính trị- ngoại giao. Còn quan hệ MỹXô từ nửa cuối thập niên 80 bắt đầu giảm căng thẳng và đối đầu, đi đến hoà dịu, kết

thúc chiến tranh lạnh, đã ảnh hưởng mạnh, trực tiếp và nhiều mặt đến nước ta.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô tan rã, quan hệ giữa LB Nga và Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ nhanh chóng được cải thiện, nói đúng hơn là thay đổi về chất

(như đã trình bày ở các chương trước). Quan hệ Nga- Mỹ là quan hệ giữa hai cường

quốc thế giới cùng theo đuổi những giá trị Phương Tây. Về phần mình, Việt Nam đã

vượt qua những thử thách khắc nghiệt của lịch sử do sù tan rã của Liên Xô và việc các

chế độ XHCN ở Trung, Đông Âu bị thủ tiêu để trụ vững. Hơn nữa, qua cơn sóng gió

hiểm nghèo đó, Việt Nam vẫn kiên định theo đuổi mục tiêu chiến lược là độc lập dân

tộc và CNXH.

Do vậy, ảnh hưởng chính trị- đối ngoại của quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh

lạnh đến Việt Nam nhìn chung là không thuận lợi mà khá phức tạp, tiềm Èn những

nguy cơ đối với Việt Nam. Tuy nhiên, do sự ràng buộc lẫn nhau của các mối QHQT

hiện đại, nên ảnh hưởng của nước này hoặc cặp quan hệ này đến một nước khác

không bao giê mang tính chất một chiều, mà luôn là sự ảnh hưởng qua lại giữa các

chủ thể tham gia các mối quan hệ được nói tới. Nhưng do thực lực, vị thế quốc tế

khác nhau, lợi Ých chiến lược khác nhau, truyền thống và lịch sử mỗi nước khác

nhau, nên mức độ ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của các chủ thể tất yếu phải khác

nhau. Ảnh hưởng của quan hệ Nga- Mỹ đến Việt Nam còng mang tính chất chung đó.



151



Về phía nước Nga, thì nước Nga hậu Xô viết có mục tiêu chiến lược là hoà nhập

thế giới Phương Tây. Tuy nhiên, trong khi mục tiêu chiến lược chưa sớm đạt được, nền

kinh tế Nga lại tiếp tục xuống dốc, tình hình chính trị- xã hội mất ổn định kéo dài . LB

Nga bị giảm sút rõ rệt vai trò và ảnh hưởng quốc tế so với Liên Xô trước đây, và nhìn

chung bị Mỹ và Phương Tây khống chế. Do vậy, LB Nga không muốn và không thể

duy trì quan hệ một cách chặt chẽ như Liên Xô trước đây với các nước đồng minh

truyền thống, đồng minh chiến lược của Liên Xô cũ ở CA- TBD, trong đó có Việt

Nam. Sù tan rã của Liên Xô đã tạo ra sự hẫng hụt lớn và đột ngột đối với quan hệ NgaViệt. Cả hai phía, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đều thực sự tỏ ra lúng túng trong

việc tiếp nối và duy trì quan hệ song phuơng đã có bề dày hữu nghị tốt đẹp hơn 40 năm.

Trên thực tế, ảnh hưởng quốc tế trở nên mờ nhạt của Nga ảnh hưởng tiêu cực

đến quan hệ Nga- Việt sau chiến tranh lạnh. Trên các diễn đàn quốc tế, Nga không

tích cực ủng hộ Việt Nam, không phối hợp các nỗ lực ngoại giao, không tham khảo ý

kiến về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm với Việt Nam như

thời kỳ Liên Xô trước đây. Các cuộc tiếp xúc chính trị giữa Nga và Việt Nam trong

những năm đầu thập niên 90 mang tính hình thức, chỉ ở cấp thấp, còn tiếp xúc chính

trị cấp cao- vốn là một hình thức biểu đạt tình hữu nghị và sự tin cậy lẫn nhau- không

được xúc tiến. Để cải thiện quan hệ Nga- Mỹ ở hướng CA- TBD và để chứng tá Nga

là “đồng minh tự nhiên” của Mỹ, Nga tiếp tục cắt giảm hoặc huỷ bỏ các cam kết XôViệt trước đây. Chẳng hạn, Nga triệt thoái hầu như toàn bộ lực lượng quân sự ở Cam

Ranh, rút dần các chuyên gia Nga đang làm việc trong nhiều công trình, nhiều lĩnh vực

khác nhau ở Việt Nam về nước. Hành động của Nga không khỏi không gây cho Việt

Nam những khó khăn lớn về chính trị, an ninh và đối ngoại. Thậm chí, lãnh đạo Nga và

một số phương tiện thông tin đại chúng (chẳng hạn đài Irina) còn phê phán Việt Nam,

xuyên tạc tình hình Việt Nam, đưa tin sai sự thật về các vấn đề nhân quyền, vấn đề



152



POW/MIA ở Việt Nam, v.v.. Do đó, những năm 1991- 1993, quan hệ Nga- Việt trong

tất cả các lĩnh vực nhìn chung bị ngưng trệ.

Về phía Mỹ, sự kết thúc chiến tranh lạnh và Liên Xô tan rã tạo cho Mỹ những lợi

thế chưa từng có để thực hiện những mục tiêu chiến lược của mình. Mỹ (và cả các

nước lớn khác) tận dụng sự co cụm của Nga để tích cực lấp những “khoảng trống

quyền lực” có tính chất chiến lược ở những khu vực ảnh hưởng của Liên Xô trước

đây. Trong quan hệ với Việt Nam, nhân cơ hội Việt Nam mất đi đồng minh tin cậy và

có sức mạnh nhất, Mỹ đã xúc tiến mạnh mẽ hơn “diễn biến hoà bình” chống phá cách

mạng Việt Nam, nhằm thủ tiêu chính thể Cộng hoà XHCN Việt Nam. Thái độ, hành

động của Nga và Mỹ cũng như quan hệ “trăng mật” Nga- Mỹ những năm đầu thập

niên 90 khiến cho những lực lượng thù địch với Việt Nam ở Mỹ, ở các nước khác coi

là cơ hội thuận lợi để tăng cường các hoạt động chống phá Việt Nam của chúng.

Do vậy, có thể nói, những năm đầu sau khi Liên Xô tan rã, sự thay đổi về chất

của quan hệ Nga - Mỹ đã tác động nhiều mặt, gây sức Ðp rất lớn đối với Việt Nam,

đặt chính thể Cộng hoà XHCN Việt Nam trước những thử thách hiểm nghèo.

Tuy nhiên, dần dần, Mỹ đã có những điều chỉnh đáng kÓ, khá rõ rệt trong chính

sách với Việt Nam. Nếu như trong những năm đầu thập niên 90, quan hệ Nga- Việt

với tính cách là các đối tác truyền thống bị ngưng trệ, thì quan hệ Việt- Mỹ, với tính

cách là những đối thủ truyền thống lại có xu hướng cải thiện. Tháng 4 năm 1991, lần

đầu tiên Mỹ đưa ra chính sách công khai và chính thức đối với Việt Nam thông qua lộ

trình bốn bước bình thường hoá quan hệ Mỹ-Việt. Nhưng rõ ràng việc bình thường

hoá quan hệ giữa hai đối thủ sau một cuộc chiến tranh tự nó đã rất khó khăn, phức tạp.

Cuộc chiến tranh Việt Nam lại là một cuộc đụng đầu lịch sử mang tính chất thời đại

mà sự kết thúc chiến tranh không làm thay đổi tính chất này. Từ đó có thể thấy, sự



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (203 trang)

×