Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662 KB, 203 trang )
10
hơn nhiều. Do vậy, trước khi khảo sát quan hệ Nga- Mỹ sau chiến tranh lạnh, chúng tôi
trình bày khái lược lịch sử quan hệ Xô-Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh.
1.1. Khái lược lịch sử quan hệ Xô - Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh
Tháng Mười năm 1917, cuộc Cách mạng “mười ngày rung chuyển thế giới”
thành công ở nước Nga, cho ra đời một Nhà nước kiểu mới- Cộng hoà XHCN Xô viết
Liên bang Nga. Ngay từ sau Cách mạng tháng Mười, Cộng hoà XHCN Xô viết LB
Nga và sau đó là Liên bang CHXHCN Xô viết đã kiên trì cuộc đấu tranh nhằm thiết
lập quan hệ chính trị và kinh tế-thương mại với Mỹ nói riêng, các nước khác nói
chung, theo nguyên tắc được V.I.Lênin khởi xướng về cùng tồn tại hoà bình giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Song nếu như từ những năm 1924 - 1925,
nhiều nước, trong đó có các nước TBCN lớn như Anh, Pháp, Italia đã chÝnh thức
công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, thì Mỹ là cường quốc duy
nhất trong thập niên 20 không thiết lập quan hệ với Liên Xô. Phải trải qua một quá
trình đấu tranh lâu dài của chính quyền Xô viết, và do tác động của rất nhiều nhân tố
khác nữa, mà tới tháng 11 năm 1933, Liên bang Xô viết và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Cũng từ đây bắt đầu một giai đoạn mới
trong quan hệ ngoại giao giữa hai cường quốc, về sau là hai siêu cường đứng đầu hai
hệ thống chính trị- xã hội đối lập trong QHQT thế kỷ XX.
Từ khi chính thức công nhận lẫn nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ
Xô - Mỹ vận động hoàn toàn không đơn giản trong tất cả các lĩnh vực chính trị-quân
sự, kinh tế- thương mại, văn hoá- khoa học- công nghệ.
1.1.1. Quan hệ Xô- Mỹ trong lĩnh vực chính trị- quân sự
Vào cuối những năm 30, trong bầu không khí nóng bỏng của QHQT do việc hình
thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và do bản chất của chủ nghĩa đế quốc, nhìn chung
Mỹ thực hiện “chính sách trung lập”, “không can thiệp”, thực chất là âm mưu mượn
11
tay người khác đánh nhau để đứng giữa trục lợi. Chính H.Truman (lúc đó là Thượng
nghị sĩ, đến 4. 1945 là Tổng thống Mỹ), ngay sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên
bố trắng trợn: “Nếu chóng ta thấy Đức sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Nga, còn nếu
Nga sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Đức, và như vậy, mặc cho họ giết hại lẫn nhau
càng nhiều càng tốt” [113, tr.435]. Chỉ khi phát xít Đức, Italia đã thôn tính nhiều nước
ở Châu Âu, Châu Phi, còn Nhật đánh chiếm Trân Châu, gây cho Mỹ những tổn thất
nặng nề, lợi Ých và an ninh Mỹ bị đe dọa, thì Mỹ mới tham chiến, cùng Liên Xô và
một số nước khác thành lập Mặt trận đồng minh chống phát xít (1.1.1942). Sau đó Mỹ
và Liên Xô ký Hiệp ước Xô-Mỹ về những nguyên tắc tương trợ trong quá trình chiến
tranh chống xâm lược (11.7.1942). Những hành động đối ngoại này của hai nước đã
góp phần tạo những biến chuyển tích cực, có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết và
hợp tác chiến đấu giữa Liên Xô và Mỹ nói riêng, các lực lượng chống phát xít nói
chung trên toàn thế giới để đánh bại chủ nghĩa phát xít.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với chiến thắng của Liên Xô và các
nước trong khối Đồng minh đã mở ra một thời kỳ mới trong QHQT hiện đại, dẫn đÕn
những biến chuyển sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới. Trong khối Đồng minh
chống phát xít, Mỹ là nước duy nhất không những không bị chiến tranh tàn phá, mà
còn lợi dụng được chiến tranh để làm giàu nhanh chóng. Với sức mạnh kinh tế đi đôi
với sức mạnh quân sự, nhất là sự độc quyền vũ khí hạt nhân, Mỹ trở thành một cường
quốc hùng mạnh. Đây là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tham vọng bá chủ
toàn cầu của Mỹ. Tổng thống Mỹ H.Truman trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 4 năm
1946 đã khẳng định: “Ngày nay Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh, không có một quốc
gia nào mạnh hơn... Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế chúng ta có nghĩa vụ
nắm quyền lãnh đạo thế giới...” [89, 119].
12
Tuy nhiên, tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ đã gặp phải những cản trở rất lớn.
Vốn là nước đi tiên phong trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, Liên Xô
bước ra khỏi Đại chiến thế giới lần thứ hai với uy tín quốc tế đã tăng cao. Nhà nước
XHCN đầu tiên trên thế giới đã tỏ rõ sức mạnh của mình trên thực tế, trở thành trụ cột
của phong trào cách mạng thế giới. Ngoài Liên Xô, một loạt Nhà nước dân chủ nhân
dân ở Đông Âu và Châu Á đã được thành lập, lựa chọn con đường đi lên CNXH. Hệ
thống XHCN thế giới dần dần được hình thành và củng cố. Cùng với sự lớn mạnh của
hệ thống XHCN thế giới, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các
nước thuộc địa và TBCN cũng phát triển mạnh, tạo thành những dòng thác lớn tấn
công vào dinh luỹ của hệ thống ĐQCN thế giới. Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ
hai, tương quan lực lượng trên trường quốc tế thay đổi không có lợi cho Mỹ.
Để thủ tiêu những lực cản đó (mà lực cản lớn nhất là Liên bang Xô viết), Mỹ đã
dùng mọi phương sách, biện pháp, thủ đoạn ngoại giao để, thứ nhất, lôi kéo, tập hợp
lực lượng chống lại Liên Xô và ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS. Thứ hai, Mỹ bắt đầu
công khai thực hiện một chính sách đối ngoại thù địch với Liên Xô trong tất cả các
lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực chính trị-đối ngoại.
Trên cơ sở một học thuyết do G.Kennan, Chủ tịch uỷ ban vạch chính sách đối
ngoại của Chính phủ, cựu đại sứ Mỹ tại Liên Xô đề ra, Tổng thống Mỹ H.Truman
tháng 3 năm 1947 đã cho ra đời một học thuyết đối ngoại mang tên “Học thuyết
Truman”. Nội dung cơ bản của Học thuyết Truman là Mỹ phải đảm trách sứ mệnh lãnh
đạo thế giới tự do, phải bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự để giúp đỡ, trước mắt là
Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, sau nữa là các dân tộc trên thế giới chống lại sự đe doạ của chủ
nghĩa cộng sản (CNCS). Nếu G.Kennan được coi là “kiến trúc sư” cho chiến lược
“Chiến tranh lạnh”, thì diễn văn của thủ tướng Anh W.Sơcsin tại Phuntơn ngày
5.3.1946 và Học thuyết Truman được coi là châm ngòi nổ cho cuộc “chiến tranh lạnh”
13
chống Liên Xô và CNCS. (Theo một số tài liệu, “chiến tranh lạnh”- cold war- là từ do
Barút, tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở LHQ đặt ra, xuất hiện lần đầu trên
báo Mỹ ngày 26.7.1947. Nhưng rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “chiến tranh lạnh”
trên thực tế đã bắt đầu trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cụ thể là tại Hội
nghị tam cường Mỹ - Anh - Xô tại Ianta tháng 2 năm 1945). Như vậy thế giới Phương
Tây đứng đầu là đế quốc Mỹ đã chính thức đề ra một chiến lược đối ngoại thù địch với
Liên Xô và các nước XHCN. “Đặc trưng tiêu biểu của chiến tranh lạnh là gây tình hình
căng thẳng, đe dọa dùng bạo lực, bao vây kinh tế, phá hoại chính trị, đẩy mạnh chạy
đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh, thành lập các khối liên minh xâm lược, tiến hành
chiến tranh tâm lý chống cộng” (Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, 1995, tr. 463).
Như vậy, với sù ra đời của Học thuyết Truman, mối quan hệ đồng minh giữa
Liên Xô với Mỹ và các nước Phương Tây trong Mặt trận Đồng minh chống phát xít
đã chấm dứt; bắt đầu một tình trạng đối đầu ngày càng căng thẳng, quyết liệt giữa hai
cường quốc Xô - Mỹ. Cuộc đối đầu Xô - Mỹ gay gắt và toàn diện trở thành trục trung
tâm của chính sách đối ngoại hai siêu cường và là yếu tố cơ bản chi phối các mối
QHQT trong suốt nhiều thập niên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Các mối
QHQT này được diễn đạt bằng thuật ngữ “Trật tự hai cực Ianta” hay “Trật tự thế giới
hai cực Xô-Mỹ” - một cực do Liên Xô đứng đầu, cực kia là Mỹ.
Để dễ bề tập hợp các lực lượng trên thế giới vào một mặt trận do Mỹ đứng đầu
chống Liên Xô, Mỹ đã ra sức thổi phồng mối đe doạ từ Liên Xô và CNCS đối với “thế
giới tự do”, bắt đầu triển khai thực hiện chiến lược toàn cầu “Ngăn chặn Liên Xô và
chủ nghĩa cộng sản” (gọi tắt là “Chiến lược ngăn chặn”). Tháng 6 năm 1947, Bộ trưởng
ngoại giao Mỹ lúc đó là G.Macsan đưa ra cái gọi là “Chương trình tái thiết Châu Âu”
hay “Kế hoạch Macsan”. Nội dung chủ yếu của kế hoạch này là Mỹ sẵn sàng viện trợ
quy mô lớn để phục hồi nền kinh tế các nước Châu Âu, để “tạo ra những điều kiện
14
chính trị và xã hội giúp cho các thể chế tự do có thể tồn tại”. Song viện trợ theo “kế
hoạch Macsan” chỉ được thực hiện với rất nhiều điều kiện nghiêm ngặt, được quy định
trong “Đạo luật viện trợ nước ngoài” mà Quốc hội Mỹ thông qua tháng 4 năm 1948. Có
16 nước, về sau thêm CHLB Đức, đã chấp nhận "Kế hoạch Macsan" của Mỹ.
Về quân sự, Mỹ đã sử dụng tối đa các ưu thế quân sự và sự độc quyền vũ khí hạt
nhân để lôi kéo các nước đồng minh lớn nhỏ vào các liên minh quân sự song phương
và đa phương. Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty
Organisation- NATO) đã chính thức ra đời ngày 4.4.1949 tại Oasinhton. Việc thành lập
NATO trước hết nhằm mục đích tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ, biến NATO
trở thành công cụ quan trọng nhất để Mỹ thực hiện kế hoạch thống trị thế giới. Sự ra
đời của NATO đã đẩy lục địa Châu Âu vào cuộc chạy đua vũ trang quy mô lớn và có
thể dẫn tới nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới thứ ba. Đặc biệt, năm 1955, sau khi
được Mỹ và các nước Phương Tây tái vũ trang, được kế hoạch Macsan phục hồi kinh
tế, CHLB Đức gia nhập khối NATO, trở thành bàn đạp chính của cuộc chiến tranh lạnh
chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũng như phong trào giải phóng dân tộc
đang lan rộng trong tất cả các thuộc địa của Mỹ và của các nước TBCN phát triển.
Ở Châu Á, Mỹ đã từng bước biến Nhật Bản thành nước lệ thuộc Mỹ, thành căn
cứ quân sự khu vực Đông Bắc Á. Tháng 9.1951, với việc ký với Nhật Hiệp ước hoà
bình San Francisco, Mỹ đã mở đường cho chủ nghĩa quân phiệt Nhật ngóc đầu dậy.
Đặc biệt, với việc ký Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật (8.9.1951), Mỹ được phép bố trí các
lực lượng vũ trang trên đất Nhật. Mặc dù Mỹ- Nhật tuyên bố Hiệp ước này nhằm
“duy trì hoà bình thế giới và an ninh Viễn Đông”, song thực chất đã chính thức hoá
việc thiết lập các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật để trước hết phong toả, bao vây Liên
Xô ở hướng Châu Á- Thái Bình Dương. Kể từ khi Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật được
ký kết, Mỹ thực tế đã sử dụng Nhật Bản phục vụ mục đích khống chế Liên Xô.
15
Ngoài Liên minh quân sự-chính trị Mỹ- Nhật, Mỹ còn thành lập các liên minh
quân sự song phương và đa phương khác ở khu vực: Mỹ-Philipin (30.8.1951); Mỹ-ÓcNiuDilân (Hiệp ước an ninh Thái Bình Dương, 1.9.1951); Mỹ-Hàn Quốc (1.10.1953);
Mỹ- Pakistan (19.5.1954); Mỹ- Đài Loan (2.12.1954); nhất là khối SEATO (8.9.1954)
gồm Mỹ, Anh, Pháp, Óc, NiuDilân, Philippin và Thái Lan.
Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ đã từng bước hình thành thế trận
liên hoàn với các cấp độ khác nhau từ Châu Âu- Đại Tây Dương (CA - ĐTD) sang
Châu Á- Thái Bình Dương (CA - TBD) với mục đích bao vây, phong toả, kiềm chế,
tiến tới tiêu diệt Liên Xô, ngăn chặn CNCS. Mỹ đã chi những khoản tài chính khổng
lồ cho ngân sách quân sự hàng năm và viện trợ quân sự cho các nước thành viên khối
NATO, SEATO và các đồng minh song phương khác. Thực chất chiến lược toàn cầu
“Ngăn chặn” của Mỹ không chỉ nhằm chống Liên Xô, chống CNCS, mà còn thực
hiện các mục tiêu phát triển nước Mỹ hùng mạnh cả về kinh tế, quân sự và chính trị
làm chỗ dựa để thực hiện tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ. Chiến lược “Ngăn chặn”
đã được nhiều lần điều chỉnh qua các đời Tổng thống Mỹ từ 1947 đến 1991, song mục
tiêu đối ngoại xuyên suốt là thống trị thế giới và tiêu diệt CNCS thì không hề thay
đổi.
Để đối phó lại âm mưu của các thế lực đế quốc hiếu chiến Phương Tây đứng đầu
là Mỹ, Liên Xô buộc phải tìm mọi cách tăng cường sức mạnh chính trị-quân sự của
mình. Một mặt, Liên Xô tập trung các nguồn lực xây dựng quân đội hùng mạnh, nền
quốc phòng hiện đại, nghiên cứu chế tạo được vũ khí hạt nhân (năm 1949) để phá thế
độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ. Mặt khác, Liên Xô tích cực triển khai kế hoạch xây
dựng hệ thống an ninh tập thể. Do Châu Âu có vị trí địa-chính trị, địa-chiến lược quan
trọng đối với hoà bình, ổn định thế giới, cũng là nơi tập trung các lợi Ých sống còn của
Liên Xô và Mỹ, nên chính sách đối ngoại của Liên Xô nhìn chung rất chú trọng Châu
16
Âu. Theo sáng kiến của ĐCS Liên Xô, tháng 9 năm 1947, tại Vacsava (Ba Lan), đã
diễn ra Hội nghị đại biểu các ĐCS Liên Xô, Bungari, Hungari, Ba Lan, Rumani, Tiệp
Khắc, Nam Tư, Pháp và Italia. Hội nghị thông qua bản tuyên bố rằng thế giới lúc này
đã chia thành hai phe: phe ĐQCN do Mỹ đứng đầu và phe XHCN do Liên Xô đứng
đầu. Hội nghị quyết định thành lập cơ quan thông tin của một số ĐCS và công nhân với
tên gọi "Cục thông tin quốc tế" (KOMINFORM). Còn sau đó, để đối phó với khối
NATO, tháng 5.1955, tại Vacsava đã ra đời một Liên minh chính trị-quân sự của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu với việc ký kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương
trợ Vacsava (gọi tắt là Hiệp ước Vacsava).
Cùng với sự tồn tại của khối NATO do Mỹ chi phối và chỉ huy, sù ra đời của
khối Vacsava do Liên Xô đứng đầu đã đẩy lục địa Châu Âu đến một cuộc đối đầu trực
tiếp giữa hai khối chính trị-quân sự hùng mạnh nhất. Sự đối đầu căng thẳng, cuộc
chạy đua vũ trang quy mô lớn (từ vũ khí hạt nhân chiÕn lược và chiến thuật đến vũ
khí thông thường) giữa hai khối là biểu hiện đặc trưng nhất của quan hệ Xô-Mỹ trong
thời kỳ chiến tranh lạnh. Cuộc chạy đua vũ trang đó đạt tới đỉnh cao vào những năm
70, khi hai bên cân bằng vũ khí hạt nhân. Mỹ đã thiết lập hơn 2000 căn cứ quân sự
với khoảng 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài (trong tổng số 3.477.000 quân thường
trực Mỹ). Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân đóng ở các nước khối Vacsava (tập
trung ở CHDC Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô-Trung [89, tr.243].
Bảng 1. Tương quan vũ khí hạt nhân chiến lược
Khối NATO
Tên lửa chiến lược ICBM (loại đặt trên
Khối
1.018
Vacsava
1.398
đất)
672
922
Tên lửa SLBM (loại đặt trên tàu ngầm)
518
160
36
62
Máy bay chiến lược
17
Tàu ngầm chiến lược
Bảng 2. Tương quan vũ khí thông thường
Xe tăng
Tàu
Đại bác
Trực thăng
Máy bay
25.091
chiến
34.453
20.620
tiêm kích
1.736
chiến đấu
5.939
NATO (1990)
Vacsava (1989)
59.470
70.330
71.560
2.785
7.876
Trong đó Liên Xô
41.580
45.000
50.275
2.200
5.955
Các nước Đông Âu
17.890
25.330
21.285
585
1.921
Nguồn: Bảng 1 và 2: Dẫn theo C. M. Rôgốp, Nga và Mỹ trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, Tạp chí
Tư tưởng tự do sè 5/97 (Tiếng Nga), tr. 95.
Ngoài ra, sự đối đầu giữa hai cực Xô- Mỹ còn biểu hiện qua các cuộc chiến tranh
nóng cục bộ giữa các đồng minh của Mỹ, một bên, với các đồng minh của Liên Xô, một
bên khác. Hàng loạt cuộc chiến tranh khu vực ở nhiều nơi trên thế giới (Trung Đông,
Đông Dương, bán đảo Triều Tiên, v.v.) có sự dính líu, can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp
của Mỹ và Liên Xô.
Tuy nhiên, dù buộc phải lao vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ, Liên Xô vẫn
kiên trì cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại vì HOÀ BÌNH, AN NINH VÀ PHÁT
TRIỂN. Trên các diễn đàn quốc tế, trong các cuộc tiếp xúc, đàm phán ở các tổ chức
khu vực cũng như trong quan hệ song phương Xô- Mỹ, các đại diện của Liên Xô bằng
nhiều phương pháp, phương tiện ngoại giao kiên trì đấu tranh nhằm giải trừ quân bị,
cấm thử, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, thiết lập hệ thống an ninh tập thể giữa các
18
nước có chế độ chính trị-xã hội khác nhau,v.v. Về phía Mỹ, do tác động của nhiều
nhân tố khác nhau, cũng buộc phải bắt đầu các cuộc tiếp xúc, đàm phán với Liên Xô
về các vấn đề trên. Từ thập niên 70 bắt đầu có những bước tiến đáng kể trong việc cải
thiện quan hệ Xô-Mỹ. Tháng 5.1972, Tổng thống Mỹ R.Nichxơn đến thăm Liên Xô,
hai bên có những cuộc hội đàm quan trọng, kết quả đã ký được các văn kiện có ý
nghĩa rất tích cực là:
1- Hiệp ước về hạn chế hệ thống phòng thủ chống tên lửa (ABM);
2- Hiệp định tạm thời về hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT-1).
Tháng 7 năm 1974, Hiệp ước ABM được bổ sung thêm một Nghị định thư quy
định mỗi bên chỉ triển khai một hệ thống ABM với số lượng tên lửa giảm một nửa so
với ABM- 1972 (ABM- 1972 quy định mỗi bên Xô- Mỹ có hai hệ thống phòng thủ
chống tên lửa, một ở thủ đô và một ở khu vực có tên lửa chiến lược, với không quá
200 tên lửa chống tên lửa) [113, tr.410]. Có thể nói, Hiệp ước ABM là Hiệp ước tạo
cơ sở cho hai nước Liên Xô và Mỹ ký Hiệp định SALT-1 và sau đó là SALT-2. Các
Hiệp ước ABM, SALT-1 và SALT-2 đã tạo nên sự cân bằng chiến lược về lực lượng
hạt nhân, vừa giữ cho hai siêu cường thoát khỏi nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt
nhân, vừa hạn chế đáng kể cuộc chạy đua vũ trang quy mô toàn cầu.
Nhưng từ năm 1981, khi R.Rigân lên làm Tổng thống Mỹ, quan hệ Xô-Mỹ bắt đầu
căng thẳng trở lại. Vị Tổng thống thuộc Đảng Cộng hoà này đã thực hiện hàng loạt các
động thái đối ngoại nguy hiểm, như bố trí tên lửa tầm trung hiện đại “Pershing” và
“Cruise” ở một số nước Châu Âu, vạch ra kế hoạch “Chiến tranh giữa các vì sao” hay
“Sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI) nhằm phá thế cân bằng quân sự với Liên Xô.
Năm 1985, chi phí quốc phòng Mỹ lên tới gần 400 tỷ USD, chiếm 28% ngân sách Liên
bang và 7% GDP [5, tr.3]. Còn Liên Xô, theo tài liệu của Mỹ, cũng chi phí quốc phòng
lên tới gần 280 tỷ USD, chiếm khoảng 50% ngân sách Liên bang và 10% GDP hàng
19
năm [178]. Theo số liệu của cơ quan kiểm soát lực lượng vũ trang và giải trừ quân bị
Mỹ, chi phí quốc phòng tính theo đầu người của Mỹ lớn hơn 6 lần chỉ số chung của thế
giới, lớn hơn 3 lần so với các nước Tây Âu và lớn hơn 6 lần so với Nhật Bản [178].
Học thuyết quân sự của Rigân “Phản ứng linh hoạt mới” được mệnh danh là “Học
thuyết chạy đua vũ trang, khôi phục vị trí đứng đầu thế giới” đã dẫn đến tình trạng hết
sức phức tạp và căng thẳng trong quan hệ Xô-Mỹ cũng như quan hệ giữa nhiều nước
khác trong suốt nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Rigân.
Năm 1985 đánh dấu bước khởi đầu quá trình thay đổi có tính chất bước ngoặt
trong chính sách đối ngoại cũng như đối nội của Liên Xô. M.Goócbachốp lên nắm
quyền lãnh đạo ở Liên Xô, với “Tư duy chính trị mới” đã có những điều chỉnh chiến
lược đối ngoại nhằm chuyển biến quan hệ từ đối đầu sang đối thoại với Mỹ. Rất nhiều
cuộc gặp cấp cao chính thức và không chính thức giữa M.Goócbachốp với R.Rigân
rồi với G.Busơ đã được tiến hành. Cuộc gặp chính thức cấp cao Xô- Mỹ có ý nghĩa
quan trọng đầu tiên là cuộc gặp giữa M. Goócbachốp và R.Rigân tại Râygiavích
(Aixơlen). Tại đây, những người đứng đầu hai Nhà nước Liên Xô và Mỹ đã bắt đầu
những cuộc đàm phán khá phức tạp về cắt giảm vũ khí hạt nhân, kể cả vũ khí hạt nhân
chiến lược. Những cuộc đàm phán tiếp nối sau đó đã dẫn đến chỗ nhiều văn kiện song
phương Xô- Mỹ đã được ký kết, trong đó quan trọng nhất là Hiệp ước về vũ khí hạt
nhân tầm trung (Intermediate-range Nuclear Forces- INF) tháng 12.1987. Theo Hiệp
ước này, hai bên thoả thuận phá huỷ khoảng 3% kho vũ khí hạt nhân của mỗi nước
gồm hàng trăm tên lửa tầm trung và tầm ngắn, có khả năng tiếp cận mục tiêu xa dưới
3.400 dặm và cho phép tiến hành kiểm tra bất ngờ các cơ sở hạt nhân của nhau. Tháng
12 năm 1989 diễn ra cuộc gặp không chính thức, song thực sự là “cuộc gặp lịch sử”
giữa M.Goócbachốp và G.Busơ tại đảo Manta trên Địa Trung Hải. Tại đây, Tổng bí
thư BCH trung ương ĐCS Liên Xô M.Goócbachốp và Tổng thống Mỹ G.Busơ tuyên
20
bố từ nay Liên Xô và Mỹ không coi nhau là kẻ thù, thoả thuận cắt giảm vũ khí hạt
nhân chiến lược và tăng cường hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề quốc tế, ....
Đây là cuộc gặp thu hút sự chú ý của dư luận thế giới và được coi là thời điểm bắt đầu
kết thúc thời kỳ “chiến tranh lạnh” giữa hai siêu cường. Gần một năm sau, tháng 11
năm 1990, Hội nghị Paris lịch sử diễn ra với sự có mặt của G.Busơ, M.Goócbachốp,
các nhà lãnh đạo của 20 quốc gia thành viên khối NATO và khối Vacsava. Tại đây
các nhà lãnh đạo kể trên đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau và chính thức ra
tuyên bố chung chấm dứt Chiến tranh lạnh (Hiến chương Paris 11/1990).
Kể từ đó, quan hệ Xô-Mỹ thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác giải
quyết những vấn đề quốc tế, những tranh chấp, xung đột vũ trang giữa hai khối và giữa
một số nước ở các khu vực trên thế giới (Ápganistan, Cămpuchia, Namibia, Trung
Đông, ...). Trong số những thoả hiệp, nhượng bộ bất lợi cho Liên Xô của M.Goócbachốp
phải kể đến việc Tổ chức Hiệp ước Vacsava tuyên bố tự giải thể tháng 3.1991.
Một Hiệp ước có ý nghĩa tích cực hơn, đánh dấu lần hoà dịu cuối cùng trong
quan hệ Xô-Mỹ là “Hiệp ước hạn chế và giảm bớt vũ khí tiến công chiến lược”
(START- 1) được G.Busơ và M.Goócbachốp ký ngày 31 tháng 7 năm 1991. Theo các
thoả thuận đạt được giữa hai Tổng thống, Mỹ và Liên Xô sẽ thủ tiêu khoảng 1/3 kho
vũ khí hạt nhân chiến lược của mỗi bên trong vòng 7 năm tính từ ngày ký.
Tuy nhiên, do tác động của hàng loạt nhân tố, cả chủ quan lẫn khách quan, cả
bên trong lẫn bên ngoài, siêu cường Liên bang Cộng hoà XHCN Xô viết- một trong
những nhà nước hùng mạnh bậc nhất trong nền chính trị thế kỷ XX-đã phải chấm dứt
sự tồn tại của mình vào cuối năm 1991. Tính từ thời điểm lịch sử này, 15 nước Cộng
hoà Xô viết chính thức trở thành các quốc gia độc lập, có chủ quyền, những chủ thể
pháp lý quốc tế mới, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế thừa nhận.