Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 167 trang )
cho toàn dân số. Cần danh sách các đơn vị bậc một nhưng chỉ cần danh sách các đơn vị bậc hai
của các đơn vị bậc một được chọn. Khuyết điểm là ước lượng chung kém chính xác hơn khi dựa
trên lấy mẫu ngẫu nhiên đớn có cùng một cỡ mẫu. Nói cách khác, để đạt được cùng độ chính xác
như lấy mẫu ngẫu nhiên đơn cần một cỡ mẫu lớn hơn.
Lấy mẫu ở bậc hai gồm lấy các mẫu ngẫu nhiên đơn có cùng kích thước từ các các đơn vị bậc
một. Phương pháp lấy mẫu bậc một phụ thuộc vào chúng có cùng số các đơn vị lấy mẫu bậc hai
hay không. Nếu có, có thể lấy mẫu ngẫu nhiên đơn. Nếu chúng có cỡ mẫu khác nhau, có thể đạt
được lược đồ epsem, bằng cách lấy mẫu xác suất tỉ lệ với kích thước (probability proportional to
size _ PPS). Thí dụ, nếu một trường học có nhiều gấp đôi học sinh so với trường kia thì nó có cơ
hội được chọn gấp đôi. Lấy mẫu PPS được tiến hành bằng cách thay thế (with replacement), có
nghĩa là sau khi một đơn vị bậc một được chọn nó vần còn được rút chọn và có thể được chọn
lần nữa. Khi một đơn vị bậc một được chọn hai lần, chọn mẫu đơn vị bậc hai nhiều gấp đôi. Tác
dụng chung là cho mỗi đơn vị bậc hai trong dân số một cơ hội được chọn bằng nhau.
Các bước tiến hành để lấy mẫu PPS được minh hạo trong ví dụ sau:
Giả sử chúng ta có 10 bệnh viện với số hồ sơ trong mỗi bệnh viện được trình bày trong bảng
sau:
Cụm
Số hồ sơ
Số hồ sơ tích Số ngãu nhiên tương ứng
lũy
1
4288
4288
1-4288
2
5036
9324
4289-9324
3
1178
10502
9325-10502
4
638
11140
10503-11140
5
27010
38150
11141-38150
6
1122
39272
38151-39272
7
2134
41406
39273-41406
8
1824
43230
41407-43230
9
4672
47902
43231-47902
10
2154
50056
47903-50056
Tổng số
50056
50056
Ðể chọn 4 cụm và điều tra 100 hồ sơ trong mỗi cụm (như vậy tổng cỡ mẫu là 400 hồ sơ) có thể
tuân theo các sau:
- Tính số hồ sơ lũy tích
- Gán một cụm cho các số ngẫu nhiên từ số hồ sơ lũy tích của cụm trước đó +1 đến số
hồ sơ lũy tích của cụm đó.
- Rút chọn ngẫu nhiên 4 số từ 1 đến 50056: thí dụ như 36699; 35700; 11883; 4285 và
ứng với mỗi số chọn 100 hồ sơ từ cụm tương ứng với các số này. Trong trường hợp này
chúng ta sẽ điều tra 300 hồ sơ của bệnh viện 5 và 100 hồ sơ từ cụm số 1.
Cũng cần lưu ý chúng ta có thể chọn các số ngẫu nhiên bằng phương pháp lấy mẫu hệ thống như
thường được thực hiện trong chương trình tiêm chủng mở rộng (EPI program).
Có thể có lược đồ lấy mẫu có nhiều bậc hơn, thí dụ như chọn tỉnh, quận, đường phố và cuối
cùng là nhà. Phương pháp lấy mẫu này được gọi là lấy mẫu nhiều bậc (multi-stage sampling).
77
Lấy mẫu ngẫu nhiên đơn
Lấy mẫu hệ thống
Lấy mẫu cụm
Lấy mẫu phân tầng
Thí dụ 2
Lấy mẫu phân tầng được đề nghị trong thí dụ 1 để ước lượng tỉ suất hiện mắc toàn bộ trong một
quốc gia với 3 vùng chính có thể được cải tiến thành cộng đồng thứ nhất (thành phố, làng, ấp) và
các nhà trong vùng, khám tất cả các thành viên trong nhà. Lược đồ sẽ là sự kết hợp giữa lấy mẫu
phần tầng (khu vực) lấy mẫu hai bậc (cộng đồng và nhà) và lấy mẫu cụm (tất cả các thành viên
trong nhà).
78
Cách tính cỡ mẫu
Mục tiêu
Sau khi nghiên cứu bài này, hội thảo viên có khả năng:
(i) Hiểu được hai cách tiếp cận trong cách tính cỡ mẫu, bao gồm khái niệm về năng lực nghiên
cứu
(ii) Biết được những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc tính toán cỡ mẫu và ảnh hưởng như thế nào
(iiI) Biết được cách tính cỡ mẫu cho những tình huống khác nhau
(iv) Biết được ảnh hưởng của cỡ mẫu lên những khía cạnh thiết kế khác.
(v) Ðánh giá được những vấn đề khác của cỡ mẫu
Giới thiệu
Cỡ mẫu sẽ có ảnh hưởng lớn đến độ chính xác của ước lượng thống kê. Từ định lí giới hạn trung
tâm chúng ta hi vọng rằng con số trung bình được ước lượng từ một mẫu sẽ tập trung tại trung
bình của dân số đó. Tuy vậy chúng ta cũng biết rằng con số ước lượng sẽ không chính xác bằng
trung bình của dân số đó mà mức độ phân tán phụ thuộc vào cỡ mẫu: Nếu cỡ mẫu nhỏ độ phân
tán lớn, nếu cỡ mấu lớn thì độ phân tán nhỏ và ta hi vọng số trung bình của mẫu sẽ bằng trung
bình của dân số. Người ta có thể trình bày mức độ phân tán theo khoảng tin cậy 95%. Nếu độ
phân tán lớn thì khoảng tin cậy 95% sẽ rộng và chúng ta khó lòng thực sự biết được trung bình
của dân số sẽ nằm ở đâu trong khoảng này. Nói rộng ra, nếu cỡ mẫu nhỏ chúng ta không thể ước
lượng một cách chính xác, chúng ta không thể chứng minh sự khác biệt giữa hai nhóm là không
có ý nghĩa.
Vấn đề xác định cỡ mẫu trong nghiên cứu khoa học là một vấn đề quan trọng. Nếu chúng ta lấy
mẫu quá nhỏ, đến giai đoạn phân tích ta có thể thấy được điều đó qua sự không chính xác của
uớc lượng, sự thất bại trong chứng minh giả thuyết. Tuy vậy khi chúng ta đã đi vào giai đoạn
phân tích số liệu thì lúc đó là quá chậm trễ để có thể thay đổi được cỡ mẫu. Ngược lại nếu
chúng ta lấy một cỡ mẫu quá lớn thì chúng ta rõ ràng lãng phì tiền bạc và thời gian.
Hai cách tiếp cận trong tính cỡ mẫu
Trên cơ bản có hai cách tiếp cận trong tính cỡ mẫu:
(a) dựa tên sự ước lượng của một tỉ lệ, một trung bình, hiệu số, nguy cơ tương đối với
một mức độ chính xác nhất định. Thí dụ, để ước lượng tỉ leẹ trẻ em trong lứa từ 12-23
tháng tuổi được tiêm chủng đầy đủ (với độ chính xác) trong vòng 10%. Câu hỏi chìa
khóa của cách tiếp cận này là khoảng tin cậy sẽ là bao nhiêu?
(b) Dựa trên kiểm định giả thuyết. Thí dụ,so sánh thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn ở 2
nhóm có giáo dục sức khỏe và nhóm chứng.Câu hỏi chìa khóa trong cách tiếp cận này là
xác suất kết luận sai lầm trong kiểm định giả thuyết là bao nhiêu?
Ước lượng một hậu quả với một độ chính xác nhất định
Ðộ chính xác của một ước lượng (với khoảng tin cậy 95%) = d có nghĩa là sai số tối đa của ước
lượng là d (với độ tin cậy 95% hay xác suất điều trên không bị sai là 95%)
Công thức tính cỡ mẫu để ước lượng khoảng tin cậy (1-α) của một tỉ lệ p với sai số d là như
sau:
z12−α / 2 p (1 − p )
d2
Một thắc mắc hay nẩy sinh trong khi nghiên cứu công thức này là trong khi chúng ta muốn
n=
79
nghiên cứu ước lượng p nhưng trong khi tính toán để tính cỡ mẫu chúng ta phải có giá trị của tỉ
lệ p! Toàn bộ logic của vấn đề là ở chỗ chúng ta có thể ước lượng p trước lúc nghiên cứu một
cách không chính xác, sau nghiên cứu chúng ta có thể ước lượng p một cách chính xác hơn
nhiều. Ta có thể ước lượng p sử dụng phán đoán của chúng ta, sử dụng những nghiên cứu trước
đó, có thể tiến hành nghiên cứu dẫn đường. Trong trường hợp chúng ta không thể ước đoán p, ta
có thể ước đoán p =0,5, một ước đoán an toàn nhất và sẽ cho một cỡ mẫu an toàn nhất (lớn
nhất).
Không có quy tắc cứng nhắc độ chính xác d, điều này phụ thuộc vào mục đích của nghiên cứu
và vào tài nguyên hiện có.
Lưu ý:
- Công thức được trình bày là dành cho phép lấy mẫu ngẫu nhiên đơn. Nếu nghiên cứu sử dụng
phương pháp lấy mẫu cụm cần phải hiệu chỉnh tác động làm giảm độ chính xác của việc chọn
cụm bằng cách tăng cỡ mẫu. Cỡ mẫu trong nghiên cứu lấy mẫu cụm thường được nhân lên với
một hệ số (được gọi là hệ số thiết kế) có giá trị từ 2 đến 4. Hệ số thiết kế có thể tính được từ việc
nghiên cứu thử. Nếu không có điều kiện tính hệ số thiết kế có thể chọn hệ số thiết kế là 3.
- Công thức tính cỡ mẫu trên là dành lấy mẫu từ một dân số vô hạn hay khá lớn. Nếu cỡ mẫu
vào khoảng từ 10% dân số trở lên, ta có thể điều chỉnh để có cỡ mẫu nhỏ hơn.
N×P
N hc =
N+P
Với N là cỡ mẫu chưa hiệu chỉnh, P là kích thước của dân số đích và N hc là cỡ mẫu sau
khi đã hiệu chỉnh.
- Chúng ta cũng nên phải trù liệu cho những số liệu bị mất, những trường hợp từ chối nghiên
cứư bằng cách tăng cỡ mẫu.
Kiểm định một giả thuyết, so sánh 2 nhóm
Giả sử chúng ta muốn so sánh hai tỉ lệ (thí dụ tỉ lệ trẻ em được bú sữa non trong hai nhóm bà
mẹ: một nhóm được giáo dục sức khỏe và một nhóm không). Chúng ta có thể kiểm định xem hai
tỉ lệnày có khác nhau đáng kể hay không, nói cách khác kiểm định xem hiệu số của hai tỉ lệ này
có khác một cách có ý nghĩa với zero khay không. Sau khi tiến hành phân tích chúng ta có thể
bác bỏ hay không bác bỏ giả thuyết này. Về phương diện thống kê, dù khi chúng ta bác bỏ hay
không bác bỏ, chúng ta đều có khả năng bị sai lầm: sai lầm mà chúng ta mắc phải khi bác bỏ giả
thuyết được gọi là sai lầm loại I, sai lầm chúng ta mắc phải khi không bác bỏ được gọi là sai
lầm loại II.
Khi kiểm định H0: Không có sự khác biệt (p1=p2; OR=1 ; RR=1 ; β=0)
Chân lí là Ho đúng
(Không có sự khác biệt)
Bác bỏ giả thuyết H0
Sai
lầm
loại
(Xác suất = α)
Không bác bỏ giả thuyết H0
Kết
luận
(Xác suất = 1-α)
Chân lí là Ha đúng
(Không có sự khác biệt)
1 Kết
luận
đúng
(Xác suất = 1-β =
Power của nghiên cứu)
đúng Sai
lầm
(Xác suất = β)
loại
II
Lí tưởng, chúng ta muốn giảm thiểu cả hai loại sai lầm trong nghiên cứu. Lưu ý rằng chúng ta đã
định nghĩa cái gọi là năng lực (power) của nghiên cứu=1-sai lầm loại II. Năng lực là xác suất
đạt được kết quả có ý nghĩa thống kê nếu thực sự có sự khác biệt giữa p 1 và p2. Mục tiêu của
chúng ta khi chọn cỡ mẫu là nếu có sự khác biệt về lâm sàng quan trọng giữa hai nhóm, chúng ta
có cơ hội tốt để tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong 2 nhóm. Ðiều này là một ý niệm
hết sức quan trọng trong thiết kế nghiên cứu và lí giải. Nếu trong giai đoạn phân tích nếu kết quả
80
là có ý nghĩa thống kê, thì hầu hết mọi người đều thỏa mãn. Mặt khác nếu kết quả không có ý
nghĩa thông kê thì điều này có thể xảy ra do (a) không có sự khác biệt thực sự giữa hai nhóm và
(b) có sự khác biệt nhưng mẫu của chúng ta không cho thấy sự khác biệt bởi vì năng lực của
mẫu thấp (cỡ mẫu nhỏ) do đó chúng ta không có kết luận rõ ràng. Do đó, nếu chúng ta chọn
mẫu để có năng lực cao và kết quả không có ý nghĩa thống kê thì chúng ta có thể chắc hơn về sự
khác biệt.
Ðể chọn cỡ mẫu (trong trường hợp cỡ mẫu của 2 nhóm so sánh bằng nhau), chúng ta phải có 4
tham số
- Sai lầm loại I hay còn gọi là mức ý nghĩa mà chúng ta muốn có trong nghiên cứu (thường là
5%)
- Sai lầm loại II chúng ta muốn có trong nghiên cứu (Sai lầm loại hai khoảng 10-20% tương ứng
với năng lực từ 80-90%)
- Tỉ lệ trong một nhóm cơ bản (thí dụ tỉ lệ tiếp xúc với yếu tố nguy cơ trong nhóm chứng của
một nghiên cứu bệnh chứng)
- Tỉ lệ trong một nhóm khác (thí dụ tỉ lệ tiếp xúc với yếu tố nguy cơ trong nhóm bệnh của một
nghiên cứu bệnh chứng). Đôi khi chúng ta không trình bày tỉ lệ của nhóm này một cách cụ thể
mà trình bày nguy cơ tương đối hay tỉ số số chênh mà chúng ta mong muốn phát hiện trong một
nghiên cứu đoàn hệ hay nghiên cứu bệnh chứng.
Công thức tính cỡ mẫu (cho mỗi nhóm) để so sánh hai tỉ lệ π1 và π2 của hai nhóm:
n=
{z1− β π 1 (1 − π 1 ) + π 2 (1 − π 2 ) + z1−α / 2 2π (1 − π )}2
(π 1 − π 2 ) 2
Các điểm cần lưu ý trong tính cỡ mẫu
- Như đã nói ở trên, cách tính cỡ mẫu chỉ cho chúng ta một ước lượng thô của cõ mẫu cần thiết
bởi vì nó dựa trên sự ước đoán về giá trị của thông số, quyết định chủ quan của chúng ta về hậu
quả mà chúng ta muốn phát hiện và công thức được sử dụng là công thức gần đúng. Do đó con
số tính ra giúp chúng ta phân biệt giữa cỡ mẫu 50 và 100 chứ không phân biệt cỡ mẫu 50 và 53.
- Chúng ta phải cân đối giữa điều chúng ta mong muốn và tính khả thi. Ðôi khi có thể dùng
công thức tính cỡ mẫu để đi ngược lại năng lực của nghiên cứu. Thí dụ nếu chúng ta có một kinh
phí hạn chế để thực hiện một nghiên cứu nên chỉ có một cỡ mẫu nhất định. Chúng ta có thể tính
ngược lại từ cỡ mẫu để biết năng lực của nghiên cứu. Nếu hóa ra năng lực của nghiên cứu rất
thấp (thí dụ như 20%) tốt nhất chung ta không nên tiến hành nghiên cứu vì chúng ta đã nắm
chắc kết quả thất bại.
- Nếu một nghiên cứu có nhiều mục tiêu thì cỡ mẫu đủ cho một mục tiêu này có thể không đủ
cho mục tiêu khác. Ðể tính cỡ mẫu, tốt nhất phải chú trọng vào biến số (hoặc những biến số
quan trọng nhất).
- Tính cỡ mẫu không khó, cái khó là phải cung cấp những giả định của nghiên cứu: sai lầm loại
một, năng lực, sự khác biệt mà chúng ta muốn phát hiện.
Tính cỡ mẫu bằng phần mềm Epi Info:
Ðầu tiên ta vào phần mềm Epitable bằng 1 trong 2 cách (giả sử thư mục chứa Epi Info trong là
c:\epi6)
- Vào trực tiếp:
c:\>c:\epi6\epitable
- Thông qua trình đơn chính của epi6
c:\>c:\epi6\epi6
Khi đã vào trình đơn chính của Epi6 chọn program Epitable trong trình đơn Programs bằng cách
81
dùng chuột hoặc nhấn Alt-P rồi kéo con trỏ xuống EPITABLE Calculator rồi nhấn
_ Describe Compare Study Sample Probability Setup
_____________________________ +----------------------+ _________________________
_____________________________ ¦ Sample size
> ¦ _________________________
_____________________________ ¦ Power calculation > ¦ _________________________
_____________________________ ¦ Random number table ¦ _________________________
_____________________________ ¦ Random number list
¦ _________________________
_________+------------------- +----------------------+ -------------+___________
_________¦
¦___________
_________¦
_____¦
_¦
_¦
__¦
__¦
¦___________
_________¦
_¦
_¦
_¦
_¦
¦___________
_________¦
_¦
_¦___¦ __¦ ____¦ ___¦
_¦
_¦
___¦
¦___________
_________¦
___¦
_¦ _¦ _¦
_¦
_¦
____¦
_¦ _¦ _¦ ¦___________
_________¦
_¦
_¦ _¦ _¦
_¦
____¦
_¦ _¦ _¦ _____¦ ¦___________
_________¦
_¦
____¦
_¦
_¦_¦ _¦ _¦
_¦ _¦ _¦ _¦
¦___________
_________¦
_____¦ _¦
___¦
_¦
___¦_¦ _¦___¦ ___¦ ___¦
¦___________
_________¦
___¦
¦___________
_________¦
¦___________
_________+----------------------------------------------------------+___________
________________________________________________________________________________
________________________________________________________________________________
____________________________________________________________________¦¦__________
___________________________________________________________________¦¦¦¦_________
__________________________________________________________________¦¦¦¦¦¦________
_________________________________________________________________¦¦¦¦¦¦¦¦_______
F1-Help F3-Move F4-Zoom F5-Print F6-Next F9-_ F10-Quit
Mem:228552
Sau đó chọn Samle size bằng cách dùng chuột hay nhấn Alt-S rồi di chuyển con trỏ vào sample
size rổi nhấn
Chương trình Epi Info cho phép tính cỡ mẫu trong 4 trường hợp: Ước lượng một tỉ lệ (single
proportion); So sánh 2 tỉ lệ trong hai nhóm (Two proportions); Nghiên cứu đoàn hệ (cohort
study) và nghiên cứu bệnh chứng (Case-control study). Chọn loại thích hợp bằng cách di chuyển
trỏ rồi nhấn
chúng ta có thể di chuyển con trỏ giữa các trường bằng cách nhấn phím
Calculate, nhấn
Lưu ý: Trong cách tính cỡ mẫu ước lượng một tỉ lệ, chúng ta thấy có một tham số Design effect.
Tham số dùng để điều chỉnh nếu chúng ta lấy mẫu theo cụm. Do đó nếu ta lấy mẫu ngẫu nhiên
đơn thì Design effect=1. Nếu chúng ta lấy mẫu theo cụm thì tham số này sẽ lớn hơn 1 và độ lớn
cụ thể thì phụ thuộc vào mức độ không đồng nhất giữa các cụm.
Nếu chúng ta lấy mẫu theo cụm thì chọn Design effect là bao nhiêu? Thông thường chúng ta có
thể tham khảo các nghiên cứu trước hoặc làm nghiên cứu pilot để xác định mức độ không đồng
nhất. Nếu chúng ta có kinh nghiệm chúng ta có thể dùng trực giác để phán đoán design effect.
Nếu chúng ta không có kinh nghiệm, không tìm được tài liệu tham khảo và không thể tiến hành
nghiên cứu pilot, chúng ta chọn Design effect = 2 để có cỡ mẫu đảm bảo an toàn (Design effect
hiếm khi nào lớn hơn 2).
82
Thí dụ
Thí dụ 1: Cho một nghiên cứu bệnh chứng, sử dụng những giả định sau để tính cỡ mẫu
cho từng trường hợp
Năng lực của nghiên cứu = 90%; mức ý nghĩa = 5%; 1 bệnh cho một chứng
% chứng tiếp xúc với yếu tố nguy cơ
OR
5%
1.5
2346
2
20%
50%
70%
90%
244
5
46
10
50
1. Dựa trên phép tính cỡ mẫu hãy đưa ra khuyến cáo khi nào nên dùng nghiên cứu bệnh chứng
và khi nào không.
2. Hãy tính cỡ mẫu trong một nghiên cứu bệnh chứng có năng lực =90%, mức ý nghĩa =5%
OR= 2 và tỉ lệ tiếp xúc với yếu tố nguy cơ là 30%. Hãy tính cỡ mẫu khi có 1 chứng: 1 bệnh; 2
chứng: 1 bệnh; 3 chứng: 1 bệnh.
Thí dụ 2: Cho một nghiên cứu đoàn hệ, sử dụng những giả định sau để tính cỡ mẫu cho
từng trường hợp
Năng lực của nghiên cứu = 90%; mức ý nghĩa = 5%; nhóm có tiếp xúc= nhóm không tiếp xúc
tỉ suất mắc bệnh trong nhóm không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ
RR
0,1%
1.5
108,904
2
1%
5%
15%
30%
3300
3
207
5
15
1. Dựa trên phép tính cỡ mẫu hãy đưa ra khuyến cáo khi nào nên dùng nghiên cứu đoàn hệ và
khi nào không.
2. Hãy tính cỡ mẫu trong một nghiên cứu bệnh chứng có năng lực =90%, mức ý nghĩa =5%
OR= 2 và tỉ suất mắc bệnh là 5%. Hãy tính cỡ mẫu khi có nhóm không tiếp xúc = nhóm tiếp
xúc; nhóm không tiếp xúc = 2 nhóm tiếp xúc; nhóm không tiếp xúc = 3 nhóm tiếp xúc
Thí dụ 3: Phòng y tế huyện A. muốn kiểm tra báo cáo về tỉ lệ tiêm chủng của một xã là
80% bằng cách tiến hành một cuộc điều tra (với sai số tuyệt đối dưới 5%, độ tin cậy = 95%).
Nếu phòng y tế quyết định chọn mẫu bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thì cỡ mẫu cần
thiết là bao nhiêu? Nếu chọn theo cụm thì cỡ mẫu cần thiết là bao nhiêu?
83
Chiến lược phân tích số liệu
1. Giới thiệu
Chúng ta đã biết qua những kĩ thuật thống kê chuyên biệt cho các tình huống dịch tễ nhất đinh.
Trong bối cảnh của một nghiên cứu dịch tễ thực sự bao gồm số liệu của rất nhiều các biến số, rất
khó quyết định thao tác nào được áp dụng và áp dụng theo trình tự như thế nào. Trong phần này,
chúng ta sẽ trình bày một số nguyên tắc chiến lược để phân tích số liệu từ nghiên cứu dịch tễ.
2. Biên tập số liệu
Kiểm tra và biên tập cẩn thận bộ số liệu là rất cần thiết trước khi bắt đầu phân tích thống kê.
Bước đầu tiên là xem sự phân phối của từng biến số để phát hiện các sai lầm có thể. Đối với
biến số phân loại, điều này thực hiện bằng bảng phân phối tần suất để xem rằng các bản ghi đều
ở trong các nhóm đã được xác định và tần suất của mỗi nhóm là hợp lí. Đối với biến số định
lượng, kiểm tra phạm vi cần được tiến hành để phát hiện những giá trị nằm ngoài phạm vi mong
đợi. Tổ chức đồ cũng có thể dùng để tìm kiếm các giá trị bất thường (outliers) không phù hợp
với phần số liệu còn lại.
Bước tiếp theo là tiến hành kiểm tra tính hàng định, để tìm kiếm những trường hợp mà 2 hay
nhiều biến số là không hằng định. Thí dụ, nếu có 2 biến số giới tính và số lần mang thai trong bộ
số liệu, chúng ta có thể sử dụng bảng chéo để chắc rằng không có người nam giới nào có số lần
mang thai là một hay nhiều hơn. Phân tán đồ cũng có thể được sử dụng để kiểm tra tính hằng
định của số liệu số; thí dụ chúng ta có thể vẽ phân tán đồ của trọng lượng theo tuổi, trọng lượng
theo chiều cao, dung tích sống theo chiều cao. Những giá trị bất thường cũng có thể được phát
hiện bằng cách này.
Những sai sót có thể được kiểm tra so với tài liệu gốc. Trong một số trường hợp cần phải điều
chỉnh lại số liệu. Một số trường hợp khác cần phải đưa mã số giá trị khuyết (missing value) nếu
chắc chắn rằng số liệu sai (thí dụ một bà mẹ có trọng lượng trước khi sinh là 45 kg và đã tăng
cân 35kg trong thời gian có thai). Trong trường hợp còn chưa rõ, khi số liệu là bất thường nhưng
không bị xem là không thể xảy ra, tốt nhất là để số liệu giữ nguyên. Một cách chặt chẽ, việc
phân tích sau đó phải được kiểm tra để đảm bảo là kết luận không bị ảnh hưởng quá mức vì giá
trị cực đoan này. Trên thực tiễn, giá trị bằng số thường được chia thành các nhóm trước khi
phân tích và do đó một hay hai giá trị bất thường khó có thể có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả.
Việc kiểm tra cần phải được tiến hành riêng biệt cho nhóm mắc bệnh và nhóm không mắc bệnh
bởi vì phân phối của 2 nhóm này có thể hoàn toàn khác nhau.
3. Mô tả số liệu
Sau khi số liệu đã được làm sạch, phân phối của từng biến số phải được rà soát lại. Điều này
được thực hiện cho 2 mục đích. Thứ nhất, để đảm bảo rằng tất cả các số liệu đều đã được sắp
xếp phù hợp và thứ hai để có một cảm giác về số liệu. Cảm giác vế số liệu là sự hiểu biét về đặc
tính của dân số đối với biến số phơi nhiễm và các giá trị khác cần đo lường. Khi thực hiện
nghiên cứu bệnh chứng, chúng ta cần phải xem xét số liệu một cách riêng biệt.
4. Phân loại biến số
Nói chung sẽ rất hữu ích nếu chúng ta phân biệt các loại biến số "kết cuộc", "phơi nhiễm", "gây
nhiễu" và "thay đổi tác động". Biến số kết cuộc và biến số phơi nhiễm là các biến số trung tâm
của nghiên cứu trong đó biến số kết cuộc mô tả vấn đề nghiên cứu và biến số phơi nhiễm là biến
số mà chúng ta muốn xem xét và ước lượng tác động của nó lên biến số kết cuộc.
Biến số gây nhiễu là biến số làm biến dạng quan hệ giữa biến số phơi nhiễm và két cuộc. Chúng
ta thu thập số liệu của các biến số gây nhiễu để loại bỏ tác động của yếu tố gây nhiễu trong khi
phân tích. Biến số thay đổi tác động là biến số thay đổi tác động của biến số phơi nhiễm lên
84
nguy cơ. Chúng ta thu thập số liệu của các biến số thay đổi tác động để xem xét tác động của
biến số phơi nhiễm lên nguy cơ thay đổi như thế nào tuỳ theo giá trị của biến số thay đổi tác
động.
Trên thực tiễn, mối liên hệ giữa các biến số có thể phức tạp hơn. Thí dụ một biến số có thể gây
nhiễu tác động của một yếu tố phơi nhiễm cần quan tâm nhung bản thân nó có thể là biến số
phơi nhiễm quan tâm. Một biến số khác có thể gây nhiễu cho một biến sô phơi nhiễm này nhưng
làm thay đổi tác động cho một biến số phơi nhiễm khác.
Ngoài ra trong nghiên cứu có thể có các yếu tố thăm dò, số liệu của biến số này có thể trở thành
biến số phơi nhiễm quan trọng hoặc nếu nó không trở thành biến số phơi nhiễm quan trọng, nó
có thể được xem là biến số gây nhiễu hay thay đổi tác động.
5. Rút gọn số liệu
Trước khi bắt đầu phân tích chính thức, có thể vần phân nhóm giá trị của các biến số. Bởi vì
phương pháp "cổ điển" dựa trên việc phân tầng là cần thiết cho giai đoạn đầu của nghiên cứu,
việc phân nhóm là quan trọng cho các biến số liên tục. Việc phân nhóm cũng cần thiết cho biến
số phân loại hay biến số rời rạc nếu các biến số này có chứa một số lớn các nhóm (thí dụ như
nghề nghiệp, số lần mang thai). Số nhóm được phân chia phụ thuộc vào từng loại biến số: đối
với biến số phơi nhiễm cần phân chia thành nhiều nhóm hơn đối với biến số gây nhiễu hay biến
số thay đổi tác động.
Đối với biến số phơi nhiễm, khi chúng ta muốn xem xét sự phụ thuộc của nguy cơ vào mức độ
phơi nhiễm (quan hệ liều lượng – đáp ứng), chúng ta sẽ mắc sai lầm nếu chúng ta sử dụng quá ít
nhóm. Nguyên tắc chung là nhóm không phơi nhiễm nên đặt riêng (thí dụ nhóm không hút
thuốc) và nhóm phơi nhiễm nên chia thành nhiều nhóm (thường là 4 hay 5 nhóm là đủ để có thể
xem xét mối quan hệ liều lượng đáp ứng). Đối với biến số liên tục như tăng huyết áp, có thể chia
các giá trị của biến số làm 5 nhóm có tần suất bằng nhau (được gọi là quintiles – ngũ vị). Điều
này giúp cho độ chính xác của ước lượng tác động lên mỗi nhóm nhưng đôi khi có thể sai lầm
do nếu có một ít đối tượng có mức phơi nhiễm rất cao bị ghép chung với các đối tượng có độ
phơi nhiễm vừa phải. Một cách khác là chọn các điểm cắt dựa trên nền tảng của các nghiên cứu
trước đó, mục đích là xác định các nhóm mà nguy cơ tương đối ít thay đổi trong từng nhóm.
Đối với biến sô gây nhiễu, hai hay ba nhóm là đủ đối với phần lớn các yếu tố gây nhiễu. Dù vậy
nếu biến số gây nhiễu mạnh (thí dụ như tuổi) thì có thể phân thành nhiều nhóm hơn. Trước khi
quyết định số nhóm cần dùng trong phân tích, chúng ta có thể đánh giá sức mạnh quan hệ giữa
biến số gây nhiễu và biến số kết cuộc. Nếu sự quan hệ này là yếu thì chúng ta có thể kết hợp
nhiều nhóm lại với nhau.
6. Đo lường tác động
Có các lựa chọn khác nhau để đo lường tác động cho các thiết kế nghiên cứu. Các lựa chọn bao
gồm:
Thiết kế nghiên cứu
Đo lường tần suất bệnh
Đo lường tác động
Đoàn hệ (người thời gian)
Tỉ suất
Tỉ số tỉ suất
Hiệu số tỉ suất
Đoàn hệ (không có số liệu Nguy cơ
người thời gian)
Tỉ số nguy cơ
Hiệu số nguy cơ
Tỉ số số chênh
Số chênh
Hiện mắc
Tỉ lệ hiện mắc
Tỉ số nguy cơ (hiện mắc)
Hiệu số nguy cơ
Tỉ số số chênh
Số chênh
85