Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.66 MB, 195 trang )
Chương II: Tài nguyên nước mặt
du lịch... Việc xây dựng các hồ chứa nước dọc theo các triền dốc của nhiều hệ thống sông
làm thay đổi chế độ điều tiết nước tự nhiên. Ngoài ra việc xây dựng nhiều công trình
không theo một kế hoạch tổng thể, nạn chặt phá rừng, khai thác nước quá mức, gây ô
nhiễm... cũng làm phá vỡ hệ cân bằng sinh thái gây nên những hậu quả xấu cho thiên
nhiên và môi trường không lường hết được.
Hoạt động của con người trong các lĩnh vực kinh tế đã làm thay đổi cân bằng nước. Ngay
trong nông nghiệp đã sử dụng trên 63% tài nguyên nước. Việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cân bằng nước trong khu vực.
Nạn chặt phá rừng bừa bãi, nhất là rừng đầu nguồn, nạn đốt rừng lấy đất canh tác… đã để
lại hậu quả nghiêm trọng như lũ quét, lũ bùn đá… và lũ trở nên khác thường.
Càng ngày chúng ta càng thấy môi trường nước bị ô nhiễm nặng hơn. Việc lạm dụng quá
mức các loại phân bón và các hóa chất bảo vệ mùa màng đã để lại dư lượng ngày một
tăng trong các nguồn nước. Hậu quả tạo ra các hiện tượng phì dưỡng, nhiễm độc, nghèo
nàn hóa… trong quần thể sinh vật.
II.4. TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT TẠI VIỆT NAM 2
II.4.1. Việt Nam có nguồn nước mặt phong phú
Tài nguyên nước mặt ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú bao gồm nhiều thủy vực tự
nhiên và nhân tạo như sông, suối, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo (hồ chứa), giếng khơi, hồ đập,
ao, đầm phá. Trung bình hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận được 1.944mm nước mưa,
trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000mm, còn lại 941mm hình thành một trữ lượng
nước mặt vào khoảng 310 tỷ m3. Tính bình quân, mỗi người dân Việt có thể hứng được
một lượng nước bằng 3.870 m3 mỗi năm, hoặc 10.600 lít nước mỗi ngày. Trong khi đó tại
các nước công nghiệp phát triển nhất, tổng nhu cầu về nước trong một ngày bình quân
theo đầu người, bao gồm cả 340 lít nước sinh hoạt, 2.540 lít nước cung cấp cho nông
nghiệp và 4.520 lít công nghiệp cũng chỉ vào khoảng 7.400 lít/người.ngày. Ở nước ta, tại
các đô thị lớn, lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi người hàng ngày hiện nay chỉ mới vào
khoảng 100 ÷ 150 lít. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là cung cấp cho nhân dân nông
thôn khoảng 70 lít/người*ngày vào năm 2010 và 140 lít/người*ngày vào năm 2020. Ở
một số vùng đặc biệt khan hiếm nước vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao
Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay là cung cấp 15 lít nước/người*ngày. Chỉ riêng nguồn
nước ngọt từ mưa tiềm năng đã vượt khá xa yêu cầu về cấp nước.
Ngoài nguồn nước mặt từ mưa, nước ta còn có nguồn nước rất lớn do các con sông xuyên
biên giới đem từ lãnh thổ các nước ngoài vào như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông
Mê-Kông. Lượng nước này ước tính bằng 520 tỷ m3, gấp 1,7 lần lượng nước ngọt hình
thành trong nước. Một số sông xuyên biên giới như sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn, Bằng
Giang ở Cao Bằng chuyển một lượng nước từ Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy
nhiên lượng này không đáng kể so với tổng lượng nước hình thành trên lãnh thổ Việt
Nam. Các phụ lưu của sông Mê-Kông như Nậm Rốm, Sê-Kông, Sê-Băng-Hiêng, Sê-San,
2
Tham khảo chi tiết: Lê Quý An và CSV (2004).
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
64
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Srê-Pok chuyển một lượng nước khá lớn từ lãnh thổ Việt Nam vào các nước láng giềng
như Lào, Campuchia, nhưng rồi từ lượng nước đó lại chảy trở lại vào ĐBSCL.
Bảng 2.1. So sánh tài nguyên nước ngọt tái tạo được của một số quốc gia
Quốc gia
Lượng nước (m3/người*ngày)
Việt Nam *
11.189
Lào
68.318
Campuchia
30.561
Trung Quốc
2.185
Hàn Quốc
1.471
Các nước nghèo nước
Toàn thế giới
50 ÷ 500
6.538
[Nguồn: Số liệu của Viện Tài nguyên Thế giới WRI (2002 ÷ 2004), trích từ Lê Quý An và
CSV (2004)]
* Theo số liệu và cách tính của nước ta có lượng nước mặt là 10.375m3/người*ngày,
chênh lệch với số liệu công bố này khoảng 7%.
Tổng hợp hai nguồn nước mặt - nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và nguồn từ
nước ngoài chảy vào - một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng nước mặt trung bình
năm bằng khoảng 830 tỷ m3. Trong đó phần hình thành trong nước là 310 tỷ, chiếm 37%;
phần từ nước ngoài vào là 520 tỷ, chiếm 63%.
Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông, hồ, kênh,
rạch, đầm phá, vừa lưu giữ, vận chuyển, chuyển hóa nước, vừa tạo nên tài nguyên đa
dạng sinh học và nguồn cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú và đa dạng.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Việt Nam có khoảng 2,372 con sông lớn nhỏ
có chiều dài từ 10km trở lên, trong đó có 109 sông chính và 26 phân lưu của các sông
lớn. Trong số này, có 9 con sông (sông Hồng, sông Thái Bình, sông Bằng Giang - Kỳ
Cùng, sông Mã, sông Cả, sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Ba, sông Đồng Nai và sông Cửu
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
65
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Long) và 4 nhánh sông (sông Đà, sông Lô, sông Sê-San, sông Srê-Pok) đã tạo nên một
vùng lưu vực trên 10.000km2, chiếm khoảng 93% tổng diện tích của mạng lưới sông ở
Việt Nam. Theo lưu vực và yêu cầu quản lý nguồn nước, có thể phân chia các sông Việt
Nam thành ba nhóm:
-
Nhóm thượng nguồn ở nước ngoài, hạ nguồn ở Việt Nam như sông Hồng, sông Mã,
sông Cả, sông Đồng Nai
Nhóm thượng nguồn ở Việt Nam, hạ nguồn ở ngoài nước như sông Bằng Giang - Kỳ
Cùng
Nhóm có một số sông nhánh thượng nguồn ở Việt Nam, trung nguồn ở nước ngoài và
hạ nguồn sông chính ở Việt Nam như sông Mê-Kông
Bên cạnh đó, Việt Nam có rất nhiều các loại hồ tự nhiên, hồ đập, đầm phá, vực nước có
kích thước khác nhau tùy thuộc vào mùa. Một số hồ lớn được biết đến như hồ Lăk (rộng
khoảng 10 km2 ở Đắk Lắk), hồ Ba Bể (rộng 5km2 ở Bắc Kạn), hồ Tây (rộng 4,5 km2 ở Hà
Nội) và Biển Hồ (rộng 2,2km2 ở Gia Lai). Các đầm phá lớn thường gặp ở cửa sông vùng
duyên hải miền Trung như Tam Giang, Cầu Hai và Thị Nại. Về hồ nhân tạo, có 750 hồ
lớn và trung bình và hàng nghìn hồ nhỏ. Trong đó có 7 hồ với dung tích trên 500 triệu
m3: Hòa Bình 5.680 triệu m3; Trị An 2.547 triệu m3; Thác Bà 2160 triệu m3; Thác Mơ
1.311 triệu m3; Dầu Tiếng 1.111 triệu m3; Yaly 779 triệu m3; Hàm Thuận - Đa Mi 535
triệu m3. Một số đập và hồ lớn hiện đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng trên sông
Đà, sông Gâm, sông Sê San, sông Đồng Nai.
Cùng với các yêu cầu về nước phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp, trong tương lai
các yêu cầu về nguồn năng lượng cũng rất lớn. Thủy năng là nguồn năng lượng chiếm tỷ
trọng lớn ở nước ta trong những năm tới. Nước ta hiện đã xây dựng được hơn 3.000 hồ
chứa lớn nhỏ, với tổng dung tích hữu ích các hồ khoảng 37 tỷ m3 (chiếm 4,5% tổng lượng
nước mặt bình quân), trong đó 45% trên sông Hồng - Thái Bình; 22% trên sông Đồng
Nai. Đáng chú ý, trong tổng dung tích hữu ích các hồ thì các hồ thủy điện chiếm gần 81%
tương đương 30 tỷ m3 [VOVNews, 2008]. Sáu hồ lớn nhất có sức chứa trên 1 tỷ m3 đang
được sử dụng để khai thác thủy điện là hồ Hòa Bình, Thác Bà, Trị An, Dầu Tiếng, Thác
Mơ và Ya Ly. Theo số liệu thống kê, Việt Nam hiện có hơn 3.500 hồ chứa nhỏ và
khoảng 650 hồ chứa cỡ lớn và trung bình dùng để sản xuất thủy điện, kiểm soát lũ lụt,
giao thông đường thủy, thủy lợi và nuôi trồng thủy sản [FAO, 1999]. Như vậy trong
tương lai các nguồn nước ở nước ta sẽ được khai thác ở mức độ lớn. Sự can thiệp ngày
càng sâu vào trạng thái tự nhiên của nguồn nước sẽ làm thay đổi mạnh chế độ tự nhiên
của dòng chảy sông ngòi.
Mặc dù tài nguyên nước ở Việt Nam có trữ lượng dồi dào nhưng trên thực tế nguồn nước
có thể sử dụng ngay lại có hạn vì sự phân bố không đồng đều. Nhiều vùng bị thiếu nước
sạch để sinh hoạt do ô nhiễm, lũ lụt, sạt lở đất, hạn hán và các tác nhân khác. Chất lượng
nước bị suy giảm nghiêm trọng đã hủy hoại môi trường sống và đẩy con người đến gần
các rủi ro nguy hiểm. Theo ước tính, khoảng 37% nước bị mất đi do lãng phí, thậm chí có
nơi lên đến 50% [Jordan, 2003]. Một ví dụ cụ thể trên lưu vực sông Đồng Nai cho thấy
tình hình khan hiếm nước đã đến mức báo động khẩn cấp. Năm 2005 bình quân lượng
nước đầu người là 2.486 m3/năm dưới ngưỡng 4.000 m3/người nằm ở mức thiếu nước
theo tiêu chuẩn Hội Tài nguyên nước Quốc tế IWRA. Theo dự báo phát triển dân số của
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
66
Chương II: Tài nguyên nước mặt
vùng thì năm 2010 chỉ còn ở mức 2.098 m3/người*năm, năm 2020: 1.770 m3/người*năm,
năm 2040: 1.475 m3/người*năm là mức khan hiếm nước.
Nước ta đã xây dựng khoảng 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn với diện tích tưới tiêu của
mỗi hệ thống từ 10.000 ha đến 200.000 ha, như các hệ thống Bắc Hưng Hải, sông Nhuệ,
Thác Huống, Bắc Thái Bình, Đồng Cam, Ayun Hạ, Dầu Tiếng.
Ven biển có nhiều đầm, phá, bàu, trằm. Nổi tiếng là đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa
Thiên - Huế) có diện tích mặt nước 216km2, đầm Thị Nại (Bình Định) 45km2, đập
Trường Giang (Quảng Ngãi) 36,9km2, Cù Mông (Phú Yên) 30,2km2, Nước Ngọt (Bình
Định) 26,5km2, Thủy Triều (Khánh Hòa) 25,5km2, Ô Loan (Phú Yên) 18km2, Lăng Cô
(Thừa Thiên - Huế) 16km2, Trà Ổ (Bình Định) 14,4km2, Đầm Nại (Ninh Thuận) 12km2.
II.4.2. Những khó khăn trong khai thác nguồn nước mặt
Khó khăn đầu tiên là có đến 63% tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam
là đến từ các nước láng giềng: Trung Quốc, Thái Lan, Myama, Lào và Campuchia chảy
vào. Các nước này đều đang ở trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa,
phát triển nông nghiệp, dịch vụ một cách nhanh chóng. Quá trình phát triển này sẽ đặt ra
cho các nước nói trên yêu cầu tận dụng hợp lý tài nguyên nước sản sinh trên lãnh thổ của
họ. Chế độ thủy văn của các dòng sông xuyên biên giới chảy vào nước ta sẽ thay đổi.
Dòng chảy nước có thể được điều tiết theo những chiều hướng không phù hợp với yêu
cầu kinh tế và sinh thái của ta. Khối lượng nước cần cho sinh hoạt, canh tác, đẩy mặn,
giao thông thủy vào mùa khô có thể sẽ không còn như trước. Chất lượng nước của một số
dòng sông sau khi đã tiếp nhận xả thải từ nhiều đô thị, khu dân cư, khu nông nghiệp trên
các vùng thượng lưu sẽ không còn độ trong sạch như hiện nay.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
67
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Bảng 2.2. Phân bố trữ lượng nước hình thành một số sông chính ở nước ta
Tổng lượng nước (km³/năm)
Địa danh sông
Diện tích (km²)
Trong nước
Ngoài vào
Toàn bộ
Bằng Giang - Kỳ Cùng
12.880
7,190
1,73
8,920
Sông Hồng - Thái Bình
168.700
93,000
44,00
137,000
Sông Mã - Chu
28.400
15,760
4,34
20,100
Sông Cả
27.200
19,460
4,74
24,200
Sông Gianh
4.680
8,140
8,140
Sông Quảng Trị
2.660
4,680
4,680
Sông Hương
2.830
5,640
5,640
10.350
19,300
19,300
Sông Vệ
1.260
2,360
2,360
Sông Trà Khúc
3.189
6,190
6,190
Sông An Lão
1.466
1,640
1,640
Sông Côn
2.980
2,580
2,580
Sông Kỳ Lộ
1.920
1,450
1,450
13.800
10,360
10,360
Sông Cái (Nha Trang)
1.900
1,900
1,900
Sông Cái (Phan Rang)
3.000
1,720
1,720
Sông Lũy
1.910
0,820
0,820
Sông Cái (Phan Thiết)
1.050
0,488
0,488
44.100
29,200
1,40
30,600
795.000
20,600
500,00
520,600
Sông Thu Bồn
Sông Ba
Sông Đồng Nai
Sông Mê-Kông *
[Nguồn: Trường Đại học Thủy lợi, 2008]
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
* không tính ở Tây Nguyên
68
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Lấy sông Mê-Kông làm ví dụ. Mê-Kông là một con sông xuyên biên giới quan trọng ở
châu Á có tiềm năng rất lớn về các dạng tài nguyên nước. Từ những năm cuối thập kỷ 50
của thế kỷ XX đã được các nước trong lưu vực và các tổ chức quốc tế hết sức quan tâm
đến việc quản lý hợp lý tài nguyên nước cùng các tài nguyên thiên nhiên liên quan khác
và các hoạt động phát triển trên lưu vực. Việc hợp tác quản lý dòng sông quan trọng này
được thực hiện trong khuôn khổ tổ chức hợp tác quốc tế của Ủy ban sông Mê-Kông MRC
trong quá khứ và hiện tại. Qua nhiều đổi thay của lịch sử, thành viên của MRC hiện nay
là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Địa phận quản lý của Ủy ban chỉ là phần "hạ
lưu" sông Mê-Kông. Trung Quốc và Mianma không phải là thành viên chính thức của Ủy
ban và chỉ tham gia một cách không chính thức vào một số cuộc họp của Ủy ban. Theo
thỏa thuận đã có giữa bốn quốc gia thuộc phần hạ lưu lưu vực sông Mê-Kông, không
nước nào được xây dựng công trình trên dòng sông chính, việc xây dựng các công trình
quan trọng trên các sông nhánh lớn cũng cần thông báo và tham khảo ý kiến của nhau.
Cho tới nay, ở phần hạ lưu trên dòng sông chính không có công trình xây dựng nào nhưng
ở phần thượng lưu thuộc địa phận lãnh thổ Trung Quốc, một loạt công trình thủy điện, với
đập cao, hồ chứa lớn đã được hoàn thành, vận hành phát điện, điều tiết nước, hoặc đang
được xây dựng và chuẩn bị xây dựng. Năm 1986, Trung Quốc bắt đầu xây con đập thủy
điện lớn đầu tiên trong dự án 14 con đập bậc thềm Vân Nam, chắn ngang dòng chính sông
Lan Thương (tên Trung Quốc của con sông Mê-Kông), trong đó có đập Mạn Loan cao
126m, công suất 1.500MW, đã hoàn thành và phát điện năm 1996; đập Đại Chiếu Sơn cao
118m, công suất 1.340MW hoàn tất năm 2003. Thêm hai đập khác cũng đang được xây
dựng là đập Tiểu Loan cao 292m, công suất 4.200MW, dự trù hoàn tất năm 2010; đập
Cảnh Hồng cao 107m, công suất 1.500MW cũng đang được thi công. Bốn dự án đập lớn
khác ở Vân Nam cũng đang được triển khai, trong đó phải kể tới đập Ngọa Trác Độ công
suất 5.500MW với dung lượng hồ chứa đến 22.740 triệu m3 nước. Đặc biệt là đập Tam
Hiệp - đập thủy điện lớn nhất thế giới được xem như Vạn lý Trường thành trên sông
Dương Tử - với chiều cao 181m, sức chứa 39 tỷ m3, công suất 18,2GW có thể cung cấp
84,7TWh điện/năm, đáp ứng khoảng 1/30 nhu cầu tiêu thụ điện của Trung Quốc.
Trên các sông nhánh Thái Lan, Lào và ở nước ta cũng đã và đang xây dựng nhiều công
trình phục vụ thủy điện và cấp nước cho nông nghiệp. Nếu trong tương lai các quốc gia ở
thượng nguồn sông Mê-Kông sử dụng một lưu lượng nước khoảng 1.200 ÷ 1.500 m3/s để
tưới ruộng trong mùa khô, hoặc nước của Biển Hồ sẽ được Campuchia khai thác nhiều
hơn cho nông, công nghiệp và sinh hoạt thì vùng ĐBSCL sẽ có nguy cơ thiếu nước, nạn
xâm nhập mặn sẽ đe dọa toàn vùng đặc biệt là vào mùa khô.
Khung 2.1 Đồng bằng sông Cửu Long: Nước mặn sẽ tiếp tục xâm nhập vào đất
liền sâu hơn
(24/3/2008) - Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam dự báo: từ nay đến tháng 5/2008,
nước mặn sẽ tiếp tục xâm nhập vào đất liền sâu hơn, có nơi mặn xâm nhập sâu tới
65km, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Từ nay đến thời điểm trên, tại khu vực
Cửa Tiểu, thuộc sông Cửu Long, độ mặn 10‰ có thể xâm nhập cách cửa sông từ 30
đến 35 km, độ mặn 4‰ có thể xâm nhập sâu đến 40 đến 45 km. Dọc sông Hàm Luông,
độ mặn 10‰ có thể xâm nhập cách cửa sông khoảng 35 km; trước đó, trong tháng
2/2008, độ mặn 4‰ đã xâm nhập sâu đến 45 km. Dọc sông Cổ Chiên, độ mặn lớn hơn
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
69
Chương II: Tài nguyên nước mặt
10‰ sẽ xuất hiện và xâm nhập sâu cách cửa sông hơn 40 km; riêng độ mặn 4‰ có thể
xâm nhập sâu đến 65 km. Dọc sông Định An trong các tháng 3, 4 năm nay và độ mặn
đạt tới 10‰ có thể xâm nhập cách cửa sông đến 30km; riêng độ mặn 4‰ có thể xâm
nhập sâu đến 40 km. Dọc sông Trần Đề, độ mặn 10‰ trong tháng 3 và tháng 4/2008 có
thể xâm nhập cách cửa sông khoảng 35 km. Độ mặn 4‰ có thể xâm nhập sâu 45 km kể
từ cửa sông. Dọc sông Cái Lớn, độ mặn 10‰ trong tháng 4 có thể xâm nhập sâu
khoảng 35 km kể từ cửa sông; đây cũng là tháng có độ mặn cao nhất trong năm 2008.
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Sâm, Viện Trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam cho biết:
Năm 2007, có lượng mưa trung bình lớn hơn năm 2006 nhưng xuất hiện sớm, nên lũ về
ĐBSCL ở mức thấp. Mực nước đầu nguồn trên sông Cửu Long vào những tháng cuối
năm 2007 giảm hơn so với cùng kỳ năm 2006. Đồng thời với xu thế ngày càng gia tăng
mực nước biển, nên mức độ xâm nhập mặn mùa khô năm 2008 sâu và lớn hơn trung
bình nhiều năm ở ĐBSCL. Hiện tại, nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền đã gây khó
khăn cho một số địa phương.
Ông Sử Văn Minh, Trưởng Phòng Nông nghiệp - Thủy sản huyện Trần Văn Thời, tỉnh
Cà Mau cho biết: hiện nước mặn đang xâm nhập sâu, đe dọa nghiêm trọng 7.000 ha đất
nông nghiệp đang thực hiện mô hình lúa + cá đồng và hoa màu của huyện. Hầu hết các
tuyến kênh vùng ngọt hóa tại huyện này đã bị nhiễm mặn (từ 4 đến 9‰). Tại vùng ngọt
hóa huyện U Minh, trên các tuyến kênh 500, Mương Phèn nước mặn đã xâm nhập sâu
vào tận nội đồng.
Tại Bến Tre, hiện nước mặn trên tất cả các con sông lớn đã vào sâu trong nội địa trên
40km, có nơi 55km. Trên sông Cửa Đại (sông Tiền), nước mặn đã tràn đến các xã Giao
Hòa, Giao Long, An Hóa (huyện Châu Thành). Trên sông Cổ Chiên, nước mặn đã tràn
đến xã Thành Thới B (huyện Mỏ Cày), các xã Vĩnh Thành, Hưng Khánh Trung (huyện
Chợ Lách, 55km). Trên sông Hàm Luông, nước mặn đã xâm nhập đến Vàm Mỹ Hóa,
thuộc phường 7, thị xã Bến Tre. Đặc biệt, độ mặn trên các sông Cửa Đại, Hàm Luông,
Cổ Chiên đã tăng lên đáng lo ngại, từ 22,5 đến 27‰, nay đã tăng lên từ 25 đến 29‰.
Hiện, nhiều huyện ven biển đã thiếu nước ngọt cục bộ, người dân phải mua nước ngọt
để ăn uống với giá cao.
Tại xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), các hồ, giếng nước ngọt đã cạn kiệt.
Tại xã đảo Nam Du và An Sơn, huyện Kiên Hải (tỉnh Kiên Giang), giếng khơi, giếng
đào trên đảo đã bị xâm ngập mặn, hoặc nước ngọt còn rất ít, đã làm cho hàng ngàn hộ
dân thiếu nước ngọt nghiêm trọng. Cả 2 xã đảo chỉ trông cậy vào nguồn nước ngọt duy
nhất, ít ỏi, tại khu vực Bãi Giếng (xã An Sơn), nhưng không đủ dùng. Có lúc, người
dân phải mua nước ngọt với giá 150.000 đồng/m3.
[Nguồn: Cổng thông tin điện tử, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (24/3/2008)]
Một khó khăn khác là tài nguyên nước trên lãnh thổ nước ta phân bố rất không đều theo
không gian và thời gian. Bình quân toàn lãnh thổ lượng mưa năm là 1.944mm. Tuy nhiên
lượng mưa này phân bố không đều theo không gian.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
70
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Bảng 2.3. Lượng mưa tại một số địa phương (mm)
Các tháng trong năm
Địa phương
1
2
3
Lai Châu
-
33
25
Sơn La
-
36
Tuyên Quang
1
Hà Nội
10
11
12
123 243 402 378 291 163
42
25
2
37
87
152 223 262 305
58
39
12
1
15
14
65
263 115 459 455
94
58
50
7
-
25
31
18
140
97
247 354 183
28
116
1
Bãi Cháy
2
10
48
43
49
198 464 666
80
50
86
1
Nam Định
2
34
28
24
220 124 186 327 102
60
1
6
Vinh
27
53
51
44
100
57
171 547 254 518
58
71
Huế
179
88
19
52
61
13
54
Đà Nẵng
98
34
2
9
69
2
127 346 394 619 279 254
Quy Nhơn
55
35
166
42
106
30
70
Pleiku
-
-
46
65
152 202 649 526 330 202
2
4
Đà Lạt
26
16
102
89
176 166 165 281 349 309
19
-
Nha Trang
9
38
168
4
24
158 179
61
98
Vũng Tàu
-
-
22
72
202 249 219 190 169 252
19
120
69
-
-
116 231 324 475 450 374 241
80
27
Cà Mau
4
5
6
5
7
7
8
9
476 510 406 239 382
46
68
219 191 138 193
[Nguồn: Tổng Cục Thống kê (2006)]
Tại tất cả các vùng trong nước, hàng năm lượng nước trong khoảng 3 tháng mùa lũ chiếm
75 ÷ 85% tổng lượng nước trong năm. Cùng với đó là mùa khô kéo dài từ 5 đến 6 tháng.
Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất nhiều con sông chỉ vào khoảng 15 ÷ 20% tổng
lượng dòng chảy năm.
Lượng dòng chảy trong sông, tổng hợp cả dòng chảy hình thành trong và ngoài lãnh thổ, cũng
phân bố rất không đều. Suất dòng chảy năm bình quân của cả nước là 2,642 triệu
m3/km2*năm. Vùng Đông Bắc với diện tích 65.327 km2 có lượng dòng chảy năm 15,4 tỷ
m3/năm, suất dòng chảy năm chỉ là 236.000 m3/km2. Vùng ĐBSCL với diện tích 39.706 km2
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
71
Chương II: Tài nguyên nước mặt
có lượng dòng chảy năm 507,9 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm khoảng 12,79 m3/ km2, gấp 54
lần suất dòng chảy của vùng Đông Bắc. Khác biệt giữa các vùng khác cũng tương đối lớn.
Bảng 2.4. So sánh suất dòng chảy năm của các vùng
Diện tích
(km2)
Lượng dòng chảy
năm (triệu m3)
Suất dòng chảy
năm (triệu m3/km2)
Đồng bằng sông Hồng
14.799
137.000
9,257
Đông Bắc
65.327
15.400
0,236
Tây Bắc
35.637
52.200
1,465
Bắc Trung Bộ
51.504
45.500
0,883
Duyên hải Nam Trung Bộ
33.066
31.700
0,959
Tây Nguyên
54.475
43.700
0,802
Đông Nam Bộ
34.733
36.600
1,054
Đồng bằng sông Cửu Long
39.706
507.900
12,789
329.247
870.000
24,565
Vùng
Tổng
[Nguồn: Lê Quý An và CSV (2004), có chỉnh sửa]
Khung 2.2 Lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long
Hàng năm, ĐBSCL có khoảng 1,4 triệu ha bị ngập lụt vào năm lũ nhỏ và khoảng 1,9
triệu ha vào năm lũ lớn, thời gian ngập lụt từ 3 đến 6 tháng, muộn hơn so với thượng
lưu khoảng 1 tháng. Lũ ĐBSCL mỗi ngày lên trung bình 5 ÷ 7 cm/ngày, lúc cao nhất
có thể đạt 20 ÷ 30 cm/ngày. Thời gian truyền lũ từ Phnôm-Pênh đến Tân Châu khoảng
2 ÷ 3 ngày. Đỉnh lũ lớn nhất thường xảy ra vào cuối tháng 9, đầu tháng 10 và vào tháng
8 thường xảy ra 1 đỉnh phụ, đỉnh phụ thấp hơn đỉnh chính.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
72
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Tổng lưu lượng lũ trung bình toàn vùng ĐBSCL khoảng 38.000 m3/s. Những năm lũ
lớn có thể đạt 40.000 ÷ 45.000 m3/s. Tổng lượng lũ vào ĐBSCL khoảng 350 ÷ 400 tỷ
m3. Mức nước ở Tân Châu cao hơn Châu Đốc khoảng 40 ÷ 60 cm, vì vậy có sự chuyển
nước từ sông Tiền sang sông Hậu qua các kênh nối giữa hai con sông này như Tân
Châu - Châu Đốc, Vàm Nao... trong đó Vàm Nao là lớn nhất. Tỷ lệ phân phối nước
giữa sông Tiền, sông Hậu tại Mỹ Thuận - Cần Thơ là tương đối cân bằng (51 và 49%).
Lũ ở ĐBSCL có thể chia làm 3 thời kỳ: Đầu mùa lũ (tháng 7 ÷ 8) nước lũ trên sông
chính lên nhanh chứa nhiều phù sa. Thời kỳ thứ 2 khi nước lũ đã lên cao, lũ vào theo 2
hướng từ sông chính vào và từ biên giới Việt Nam - Campuchia tràn xuống. Thời kỳ
thứ 3 là lũ rút, thường bắt đầu từ hạ tuần tháng 10, mức nước lũ ĐBSCL xuống dần cho
đến tháng 12 thì đại bộ phận diện tích hết ngập lụt.
Một vài trận lũ lớn do sông Mê-Kông gây ra:
-
Lũ năm 1961: đây là một trong hai trận lũ lớn có đỉnh cao nhất trong khoảng 60
năm trở lại đây ở ĐBSCL, mực nước cao trên 4,50m.
-
Lũ năm 1966: là năm có đỉnh cao nhất trong hơn 30 năm qua; đỉnh lũ năm 5,28m
tại Tân Châu và 4,84m tại Châu Đốc.
-
Lũ năm 1978: là một trong những trận lũ lớn cả về lưu lượng, tổng lượng và đạt
đỉnh cao nhất 4,94m tại Tân Châu và 4,49m tại Châu Đốc, toàn vùng ĐBSCL có 87
người chết, 66.010 căn nhà hư hỏng, 245.500 hộ di dời, thiệt hại 2.469 tỷ đồng.
-
Lũ năm 1991: đỉnh lũ năm đạt trên 4,50m tại Tân Châu, toàn vùng ĐBSCL có 158
người chết, 197.477 căn nhà hư hỏng, 15.600 hộ di dời, 88.837 ha lúa bị ngập, thiệt
hại 2.217 tỷ đồng.
-
Lũ năm 1994: đỉnh lũ cao nhất trong năm tại Tân Châu là 4,67m và Châu Đốc là
4,26m, có 407 người chết, 505.906 căn nhà hư hỏng, 20.125 hộ di dời, 202.189 ha
lúa bị ngập, thiệt hại 2.284 tỷ đồng.
-
Lũ năm 1996: đạt đỉnh lớn nhất 5,03m tại Tân Châu và 4,7m tại Châu Đốc, có 217
người chết, 78.859 căn nhà hư hỏng, 38.735 hộ di dời, 107.707 ha lúa và 76.396 ha
vườn cây ăn trái bị ngập, thiệt hại 2.182 tỷ đồng.
-
Lũ năm 2000: lũ đến sớm hơn mọi năm và là trận lũ lịch sử. Mực nước cao nhất
trên sông Tiền tại Tân Châu là 5,06m (thấp hơn đỉnh lũ năm 1961 chỉ 5cm và cao
hơn đỉnh lũ năm 1996 đến 22cm), đỉnh lũ trên sông Hậu tại Châu Đốc đạt 4,90m
(cao hơn lũ lịch sử 1961 đến 13cm); tổng lượng lũ năm 2000 đạt 420 tỷ m3. Lũ năm
2000 vừa có đỉnh lũ cao vừa kéo dài trên 2 tháng; toàn vùng ĐBSCL có 548 người
chết, 901.983 căn nhà hư hỏng, 115.093 hộ di dời, 211.141 ha lúa bị ngập, thiệt hại
4.405 tỷ đồng.
[Nguồn: Thanh Tặng (10/2008)]
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
73
Chương II: Tài nguyên nước mặt
Trong khi nhiều vùng đất phải đối mặt với những cơn lũ dữ, nhiều khu vực khác lại đang
ngày ngày “Cầu trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày…”. Hạn hán là
một hệ quả khác trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Hạn hán cũng là thiên
tai gây tác hại lớn trên diện rộng cho sản xuất nông, công nghiệp và sinh hoạt của nhân
dân. Vào mùa khô tất cả các vùng sinh thái từ đồng bằng, trung du đến miền núi đều có
thể bị hạn nặng. Thậm chí tại các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế và
một số thành phố duyên hải miền Trung vào mùa khô cũng có nạn thiếu gay gắt nước ăn
uống sinh hoạt cho nhân dân, cũng như nước cho sản xuất công nghiệp.
Khung 2.3 Hạn hán ở Tây Nguyên ngày càng khốc liệt
Nửa đầu tháng 4, một vài nơi ở Tây Nguyên đã có mưa, nhưng không làm giảm cơn
khát của người dân và hàng chục nghìn ha lúa, cà phê nơi đây. Toàn khu vực hiện có
25.000 hộ dân với hơn 123.000 người bị thiếu nước sinh hoạt. Đặc biệt, 319.000 người
đang lâm vào cảnh thiếu ăn do giáp hạt và hạn hán.
Nhận định của Trung tâm khí tượng thủy văn Tây Nguyên thời gian tới ngày nắng nóng
và khô, nhiệt độ có ngày lên tới 36 độ C. Lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm,
phổ biến ở mức 25 ÷ 30 mm. Tình trạng khô hạn vẫn tiếp tục xảy ra.
Các tỉnh Nam Trung Bộ vẫn tiếp tục nắng nóng, ít mưa, tổng lượng mưa tháng có khả
năng ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm. Lượng dòng chảy trên các sông suối giảm
dần, có thể thiếu hụt so với trung bình nhiều năm 15 ÷ 25%.
Hiện mực nước trên các ao hồ, sông suối ở Tây Nguyên tiếp tục giảm dần. Dòng chảy
trên các sông suối đều nhỏ hơn trung bình cùng kỳ 20 ÷ 30%, có nơi 40 ÷ 50%. Một số
hồ nước đã thấp hơn mực nước chết như Ia Rung (Gia Lai), Krông Búc Hạ, Ea Súp Hạ,
Núi Lửa (Đăk Lăk), Đăk Sa Nen, Đăk Brông, Hồ Chè, Ia Bang Thượng (Kon Tum).
Theo Bộ NN&PTNT, Đăk Lăk bị thiệt hại nhiều nhất. 250.000 hộ dân ở đây đang lâm
vào cảnh đói và rất cần sự hỗ trợ. 62.000 hộ khác đang ngóng trời cầu mưa vì hơn 2
tháng nay họ phải đi vài cây số mới lấy được một hai bình nước. Về nông nghiệp,
5.790 ha lúa đông xuân, 40.440 ha cà phê, 1.420 ha rau màu tập trung ở các huyện
Krông Pak, Krông Buk, Krông Năng, Ea Kar... đang bị cạn kiệt nguồn nước tưới tiêu.
Tỉnh đã chi khoảng 40 tỷ đồng, trong đó nhân dân đầu tư 35 tỷ đồng cho công tác
chống hạn, tuy nhiên vẫn đành chấp nhận để nhiều diện tích lúa và cà phê bị mất trắng.
Tỉnh Gia Lai dù đã trích ngân sách 800 triệu đồng cho công tác chống hạn, nhưng hiện
vẫn có 37.000 người thiếu lương thực, hơn 4.000 hộ dân với 21.420 nhân khẩu tập
trung ở các huyện phía đông Trường Sơn bị khan hiếm nguồn nước sinh hoạt. 998 ha
lúa đông xuân, 1.170 ha cà phê, 740 ha ngô cũng đang bị nứt nẻ, héo rũ.
Tại Kon Tum hiện có 32.500 người thiếu ăn, 2.800 hộ dân với 11.520 người tập trung ở
huyện Ngọc Hồi, Kon Rẫy, Đăk Tô, Sa Thầy, thị xã Kon Tum bị thiếu nước sinh hoạt.
360 ha lúa đông xuân, 59 ha cà phê, 50 ha mía cũng trong cảnh khát nước. Kon Tum đã
trích 100 triệu đồng từ ngân sách của tỉnh để mua 5 máy bơm và nhiên liệu phục vụ cho
việc bơm nước tưới tiêu.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
74