Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.66 MB, 195 trang )
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
Bảng 3.4. Độ cao tuyệt đối mực nước bình quân tháng năm 2007 đồng bằng Nam bộ
Đơn vị: m
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
TB
Tầng chứa nước Pleistocen thượng (qp3)
Năm 2007
4,14 3,82 3,15 2,98 3,77 3,48 4,28 4,60 4,88 5,27 5,17 4,65 4,18
Lệch 2006
-0,31 -0,36 -0,70 -0,63 0,15 0,13 0,44 0,09 0,04 0,25 0,45 0,20 -0,02
Tầng chứa nước Pleistocen trung - thượng (qp2-3)
Năm 2007
-3,89 -3,98 -4,20 -4,41 -4,11 -3,86 -3,62 -3,79 -3,54 -3,85 -3,53 -3,78 -3,88
Lệch 2006
-0,93 -0,75 -0,58 -0,59 -0,29 0,25 0,21 -0,23 -0,20 -0,85 -0,50 0,07 -0,37
Tầng chứa nước Pleistocen hạ (qp1)
Năm 2007
-0,53 -0,78 -1,03 -1,31 -1,15 -0,99 -0,80 -0,48 -0,28 0,04 0,13 -0,14 -0,61
Lệch 2006
-0,21 -0,26 -0,32 -0,27 -0,05 -0,01 -0,02 0,18 0,18 0,18 0,45 0,46 0,03
Tầng chứa nước Pliocen trung trung (n22)
Năm 2007
0,94 0,82 0,67 0,58 0,52 0,50 0,59 0,67 0,89 1,07 1,13 0,87 0,77
Lệch 2006
-0,01 0,02 -0,01 0,06 0,23 0,24 0,26 0,19 0,22 0,08 -0,02 -0,18 0,09
Tầng chứa nước Pliocen trung hạ (n21)
Năm 2007
0,94 0,82 0,67 0,58 0,52 0,50 0,59 0,67 0,89 1,07 1,13 0,87 0,77
Lệch 2006
-0,01 0,02 -0,01 0,06 0,23 0,24 0,26 0,19 0,22 0,08 -0,02 -0,18 0,09
Độ sâu mực nước lớn nhất cách mặt đất tầng chứa nước Pliocen (n22) ở vùng Cà Mau tại
lỗ khoan quan trắc Q17704T là - 17,72m, thấp hơn năm 2006 là 1,61m. Dự báo tháng 6
năm 2008 mực nước có thể hạ thấp xuống độ sâu - 18,3m.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
100
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
-4.0
Độ sâu mực nước (m)
y = -0.0029x + 97.328
-8.0
-12.0
-16.0
-20.0
6/95
12/96
6/98
12/99
6/01
12/02
6/04
12/05
6/07
12/08
Thời gian
Hình 3.10. Dao động mực nước lỗ khoan quan trắc Q.17704T tầng chứa nước Pliocen
Độ sâu mực nước lớn nhất cách mặt đất của tầng chứa nước Pleistocen hạ (qp1) ở Bình
Chánh - thành phố Hồ Chí Minh tại lỗ khoan quan trắc Q.015030 là - 28,36 thấp hơn giá
trị này năm 2006 là 2,02m. Dự báo tháng 6 năm 2008 mực nước có thể hạ thấp xuống độ
sâu - 28,5m.
-2.0
Độ sâu mực n ước (m)
-6.0
-10.0
-14.0
-18.0
-22.0
-26.0
-30.0
1/95 7/96 1/98 7/99 1/01 7/02 1/04 7/05 1/07 7/08
Thời gian
Hình 3.11. Dao động mực nước lỗ khoan quan trắc Q.015030 tầng chứa nước Pleistocen
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
101
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
Một số giếng quan trắc được lấy mẫu nước và phân tích vào mùa khô năm 2007 đã cung
cấp bảng đánh giá tổng hợp chất lượng nước vào mùa khô. Hầu hết các nguyên tố vi
lượng trong các tầng chứa nước đều dưới mức chỉ tiêu cho phép trừ Mn, NH4+, Cu và Cr.
Bảng 3.5. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu hóa học nước ngầm đồng bằng Nam bộ
Đơn vị: mg/L
Đặc trưng
TCVN 59441995
TDS
Mn
As
Cr
Cu
Pb
Hg
Ni
NH4+
1000
0,50
0,05
0,05
0,07
0,01
0,001
0,02
1,50
0/6
0/6
0/6
1/10
0,001
0,003
0,001
0,000
0,000
0,000
0,009
0,017
0,003
0,85
5,99
0,00
0/8
0/8
0/8
1/4
0,002
0,009
0,000
0,000
0,001
0,000
0,003
0,005
0,000
1,10
3,36
0,04
0/8
0/8
1/8
0/4
0,001
0,002
0,000
0,000
0,003
0,000
0,017
0,113
0,000
0,37
0,88
0,00
0/9
1/9
0/9
0/3
0,001
0,003
0,000
0,000
0,001
0,000
0,002
0,003
0,000
0,03
0,10
0,00
Số mẫu vượt
11/21
/Tổng số mẫu
Giá trị TB
2790
Giá trị max
14209
Giá trị min
57
Số mẫu vượt
13/29
/Tổng số mẫu
Giá trị TB
2882
Giá trị max
22540
Giá trị min
34
Tầng chứa nước qp3
3/6
0,75
2,39
0,04
1/8
0,21
0,55
0,01
Số mẫu vượt
7/23
2/8
/Tổng số mẫu
Giá trị TB
2733 0,37
Giá trị max
16527 1,56
Giá trị min
36
0,009
Số mẫu vượt
9/23
3/9
/Tổng số mẫu
Giá trị TB
6343 4,51
Giá trị max
26960 38,7
Giá trị min
53
0,009
Số mẫu vượt
10/20
/Tổng số mẫu
Giá trị TB
6518
Giá trị max
26702
Giá trị min
99
1/6
0/6
0/6
0,011 0,000 0,014
0,057 0,001 0,046
0,000 0,000 0,004
Tầng chứa nước qp2-3
0/8
0/8
0/8
0,001 0,001 0,007
0,001 0,006 0,017
0,000 0,000 0,001
Tầng chứa nước qp1
0/8
1/8
1/8
0,002 0,090 0,052
0,010 0,716 0,400
0,000 0,000 0,000
Tầng chứa nước n22
0/9
0/9
0/9
0,004 0,001 0,004
0,025 0,005 0,012
0,000 0,000 0,001
Tầng chứa nước n21
0/3
0/3
0/3
0/3
0/3
0/3
0/3
0/1
0,13
0,35
0,02
0,007
0,013
0,003
0,000
0,000
0,000
0,001
0,001
0,001
0,000
0,001
0,000
0,000
0,000
0,000
0,002
0,003
0,000
0,02
0,02
0,02
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
102
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
c) Vùng Tây Nguyên
Độ sâu mực nước lớn nhất cách mặt đất ở vùng Ban Mê Thuột tại lỗ khoan quan trắc
C.5o là - 33,51m cách mặt đất. Dự báo đến tháng 6 năm 2008 độ sâu mực nước có thể gia
tăng đến - 33,20m cách mặt đất.
Độ sâu mực nước (m)
-29.0
-31.0
-33.0
-35.0
1/96 1/97 1/98 1/99 1/00 1/01 1/02 1/03 1/04 1/05 1/06 1/07 1/08
Thời gian
Hình 3.12. Dao động mực nước lỗ khoan quan trắc C.5o
Bảng 3.6. Độ cao tuyệt đối mực nước bình quân các tháng vùng Tây Nguyên (m)
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
TB
TB 2007 557,3 556,8 556,3 556,1 556,3 556,4 556,9 558,3 558,5 558,9 558,9 558,3 556,5
Lệch 2006 -0,1
0,0
0,0
-0,1
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
0,0
0,0
-0,1
0,0
-0,5 -0,4
0,4
0,5
0,0
103
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
Bảng 3.7. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu hóa học nước ngầm ở Tây Nguyên (mg/L)
Đặc trưng
TDS
Mn
Hg
As
Pb
NH4+
TCVN 5944-1995
1000
0,50
0,001
0,05
0,05
3,00
Số mẫu vượt/Tổng số mẫu (mùa khô)
0/110
1/23
0/23
0/23
0/23
0/22
Giá trị trung bình (mùa khô)
150
0,11
0,001
0,0005
0,002
0,12
Giá trị cực đại (mùa khô)
732
0,59
0,001
0,0005
0,008
0,25
Giá trị cực tiểu (mùa khô)
16
0,00
0,0005 0,0005 0,0005
0,04
0/110
2/23
0/23
0/23
0/23
0/21
Giá trị trung bình (mùa mưa)
128
0,13
0,001
0,0005
0,001
0,02
Giá trị cực đại (mùa mưa)
806
0,83
0,0005 0,0005
0,006
0,06
Giá trị cực tiểu (mùa mưa)
16
0,01
0,0005 0,0005 0,0005
0,00
Số mẫu vượt/Tổng số mẫu (mùa mưa)
III.6.3. Khai thác nguồn nước ngầm
Theo diễn biến động thái nguồn tài nguyên nước ngầm như đã trình bày trong phần trên,
có thể nói nước ta có nguồn tài nguyên nước ngầm khá phong phú. Tuy nhiên lượng nước
ngầm phân bố không đều; bên cạnh đó việc khai thác tùy tiện, không theo quy hoạch,
không quản lý chặt chẽ; ý thức bảo vệ tài nguyên, môi trường còn thấp nên trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội đã làm tổn hại nặng nề đến tài nguyên nước ngầm. Tại
nhiều vùng nước ngầm đã bị nhiễm mặn không thể tiếp tục khai thác, nhiều nơi khác đã
có các biểu hiện nhiễm bẩn một số thành phần, kể cả sự hiện diện của một số nguyên tố
độc hại như As, Hg… trong nước ngầm.
Theo các dự báo, trên phạm vi đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 dân số có thể đạt tới
20.000.000 người là vùng có mật độ dân cư lớn nhất trong cả nước. Nhiều đô thị, khu
công nghiệp lớn và vừa sẽ hình thành: Hà Nội với khoảng 3.500.000 dân; Hải Phòng,
2.000.000; Nam Định, 300.000; Hải Dương, 120.000; Hà Đông, 100.000; Thái Bình,
100.000; Ninh Bình, 100.000; Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh mỗi thị xã xấp xỉ 100.000
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
104
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
người. Tại các vùng lân cận thành phố Hạ Long sẽ có 500.000 dân; Việt Trì, 200.000;
Bắc Giang, 110.000; Vĩnh Yên, Sơn Tây cũng xấp xỉ 100.000. Đa số các thành phố, thị
xã này và các khu công nghiệp lân cận đều sử dụng nước ngầm làm nguồn cấp nước.
Lượng nước ngầm cần cung cấp cho các đô thị và khu công nghiệp có thể lên tới
1.252.700 m3/ngày.
Vùng Đông Nam bộ có nhiều đô thị lớn, khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung.
Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có dân số dự kiến khoảng 7.000.000 người vào năm 2010;
Biên Hòa, 500.000; Vũng Tàu, 350.000; Phan Rang, Phan Thiết, Tây Ninh, Thủ Dầu Một
sẽ có từ 250.000 đến 300.000 người cho mỗi thành phố. Mật độ dân số vùng này chỉ kém
đồng bằng Bắc bộ. Trên phạm vi Đông Nam bộ hiện đã hình thành 43 khu công nghiệp
và chế xuất với tổng diện tích lên đến 8.263 ha. Đông Nam bộ cũng là nơi có nhiều thuận
lợi cho phát triển cây lương thực, cây công nghiệp. Nước ngầm vùng Đông Nam Bộ
tương đối phong phú nhưng chất lượng không đều, hiện tại có thể tạm khai thác cấp nước
cho ăn uống sinh hoạt. Cũng như ở đồng bằng sông Hồng, việc khai thác nước ngầm ở
Đông Nam bộ sẽ được đẩy mạnh hơn và các tác động đến nước ngầm cũng sẽ mãnh liệt
hơn do chất thải, phân bón, khai thác khoáng sản và do các hoạt động xây dựng. Một số
nơi còn chịu các di chứng của chiến tranh để lại.
Ở các vùng khác như Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Trung bộ và
miền núi phía Bắc sẽ có gia tăng yêu cầu cung cấp nước ngầm tương tự cho nông nghiệp,
công nghiệp, đô thị và nông thôn với những mức độ khác nhau.
Nhìn chung trong phạm vi cả nước, về lượng, nước ngầm sẽ phải khai thác nhiều hơn,
phổ biến hơn; về chất, nguy cơ ô nhiễm nước ngầm do chất thải sinh hoạt, công nghiệp,
nông nghiệp sẽ tăng thêm nhiều. Tình trạng đó đòi hỏi phải sử dụng hợp lý hơn, bảo vệ
nghiêm ngặt hơn nguồn nước ngầm của nước ta. Cụ thể là cần thực hiện ngay quy hoạch
tổng thể và chi tiết các nguồn nước, trong đó có nước ngầm, theo các lưu vực và địa
phương; xác định rõ nguồn cấp, phương thức cấp, mức cấp và địa điểm lấy nước để cung
cấp cho các nơi dùng nước, trên cơ sở đó điều tra, khảo sát chi tiết về khả năng cung cấp,
xác lập các phương thức khai thác và các biện pháp bảo vệ nguồn nước ở những địa điểm
đó. Trên phạm vi nguồn cấp, tuyệt đối không được xây dựng các công trình chôn lấp chất
thải, không được sử dụng các hóa chất độc hại, không được xây dựng các công trình gây
tổn hại đến nguồn nước, bảo vệ và phát triển các công trình có khả năng làm tăng nguồn
nước ngầm như rừng, hồ chứa nước.
Khung 3.1 Hà Nội đang sụt lún do khai thác nước ngầm
Do quá trình đô thị hóa và nhu cầu dùng nước sạch ngày càng nhiều, Hà Nội phải
không ngừng tăng lưu lượng bơm hút nước ngầm ở dưới sâu trong lòng đất khiến mực
nước ngầm bị hạ thấp. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sụt lún mặt đất
thành phố. Chỉ tính riêng năm 2006, lượng nước ngầm khai thác khoảng 650.000m3 ÷
700.000m3/ngày đêm. Tầng khai thác nước chủ yếu là tầng chứa nước Pleistocen (qp1),
có nguồn cung cấp chủ yếu là nước mưa và nước mặt. Tuy nhiên lượng cung cấp này
thường nhỏ hơn so với lưu lượng khai thác.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
105
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
Thực trạng sụt lún
Hiện nay, vấn đề đặt ra đối với Hà Nội là việc lưu lượng nước ngầm được bơm hút theo
thời gian ngày càng tăng, thêm vào đó điều kiện địa chất thành phố rất phức tạp, nhiều
nơi tồn tại những tầng đất yếu với chiều dày lớn. Điều này có thể gây ra các tai biến về
môi trường địa chất như sụt lún nền đất, ô nhiễm nước ngầm...
Việc nghiên cứu hiện tượng lún bề mặt đất do bơm hút nước dưới đất ở Hà Nội đã
được nhiều cơ quan thực hiện với nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó phải nói đến
chương trình nghiên cứu biến dạng lún bề mặt đất thành phố do thay đổi mực nước
ngầm của Viện Khoa học Công nghệ và Kinh tế Xây dựng Hà Nội (thuộc Sở Xây dựng
Hà Nội). Đây là đơn vị đầu tiên đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm hiện tượng lún bề
mặt đất thành phố do thay đổi mực nước ngầm từ năm 1991 cho đến nay.
Kết quả nghiên cứu bước đầu đã xây dựng được 10 trạm đo lún bề mặt đất do thay đổi
mực nước ngầm, đặt tại các nhà máy nước và trạm tăng áp thuộc Công ty Kinh doanh
nước sạch số 2 Hà Nội, nhằm xác định mối quan hệ giữa sự khai thác nước ngầm và độ
lún bề mặt đất tại các trạm. Các trạm đo lún bề mặt đất được xây dựng trên nền đất có
điều kiện địa chất điển hình của thành phố, như khu vực có tồn tại lớp đất yếu là Thành
Công, Pháp Vân, Ngô Sỹ Liên, Tương Mai…
Khu vực có tồn tại lớp đất tốt là Ngọc Hà, Mai Dịch, Đông Anh, khu vực ven sông
Hồng như Lương Yên, Gia Lâm, và khu vực nằm cách xa sông Hồng như Ngô Sỹ Liên,
Hạ Đình... Kết quả quan trắc tại các trạm trên cho thấy, tại những trạm có tồn tại lớp
đất yếu, tốc độ lún bề mặt đất tương đối lớn như Thành Công là 41,42 mm/năm, Ngô
Sỹ Liên 31,52 mm/năm, Pháp Vân 22,16 mm/năm …Những trạm không tồn tại lớp đất
yếu có tốc độ lún bề mặt nhỏ như Ngọc Hà là 1,80 mm/năm, Mai Dịch 2,65 mm/năm,
Đông Anh 1,41 mm/năm. Những trạm có vị trí gần sông Hồng có độ lún bề mặt đất nhỏ
hơn vì mực nước ngầm được nước sông bù phụ một phần như Lương Yên 18,83
mm/năm, Gia Lâm 10,33 mm/năm.
Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
Theo các phương pháp quan trắc thực nghiệm mà Viện Khoa học Công nghệ và Kinh
tế Xây dựng Hà Nội đang tiến hành nghiên cứu, quá trình hạ thấp mực nước ngầm là
một trong những nguyên nhân gây nên sụt lún bề mặt đất thành phố.
Nhưng vì những trạm đo lún nói trên hầu hết được đặt tại tâm phễu lún (trong các nhà
máy nước), nên nó chỉ phản ánh được độ lún riêng lẻ tại nơi khai thác nước ngầm, mà
chưa thể hiện được phạm vi ảnh hưởng (bán kính) của phễu lún cũng như khả năng ảnh
hưởng của các phễu lún.
Do đó, chưa đủ cơ sở để lập bản đồ hiện trạng lún của thành phố và dự báo độ lún của
một khu vực cũng như toàn thành phố, nên cần phát triển thêm nhiều trạm đo lún tại
các tâm phễu và miệng phiễu lún.
Cũng theo các nhà nghiên cứu, đặc điểm chính của sự sụt lún bề mặt đất do thay đổi
mực nước ngầm làm cho bề mặt địa hình thay đổi theo thời gian. Vì vậy khi quy hoạch,
xây dựng cần phải lưu ý để đưa ra được giải pháp hợp lý trong việc xử lý cốt san nền,
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
106
Chương III: Tài nguyên nước ngầm
xây dựng hệ thống thoát nước, xử lý chống úng ngập tại những khu vực trũng, hay xẩy
ra ngập lụt khi có mưa to kéo dài.
Đối với các công trình giao thông và các công trình xây dựng dân dụng công nghiệp,
khi sử dụng giải pháp móng nông phải lưu ý tới độ lún nền đất bị tăng thêm do hạ mực
nước ngầm để từ đó có biện pháp khắc phục.
Đối với các công trình sử dụng giải pháp móng cọc, cần lưu ý tới yếu tố “ma sát âm”
gây ra tải trọng phụ thêm tác dụng lên cọc do độ lún các lớp đất yếu gây ra. Quy hoạch
vị trí xây dựng các nhà máy khai thác nước nên ưu tiên vị trí ven sông, vì khu vực đó
có nguồn cung cấp, bổ trợ lớn cho tầng chứa nước khai thác. Giảm lưu lượng khai thác
nước ngầm bằng việc khai thác, xử lý nguồn nước mặt từ sông Đà.
Ngoài ra, khi quy hoạch tổng thể hệ thống mạng lưới các trạm đo lún bề mặt đất của
thành phố do thay đổi mực nước ngầm được thực hiện hoàn chỉnh, thì hoàn toàn có thể
kiểm soát được biến dạng lún bề mặt đất thành phố, phục vụ có hiệu quả cho công việc
phát triển bền vững của thủ đô.
[Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam (4/2007)]
III.7. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Các loại tầng ngậm nước và khả năng khai thác nước tại những khu vực đó.
2. Sự phân chia các tầng nước ngầm theo phương thẳng đứng đóng vai trò như thế nào
trong trồng trọt?
3. Các yếu tố gây ảnh hưởng đến mực nước ngầm.
4. Hãy tìm hiểu thêm về vấn đề khai thác và ô nhiễm nguồn nước ngầm hiện nay ở nước ta.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
107
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
CHƯƠNG IV: CÁC VẤN ĐỀ VỀ Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC
IV.1. Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC
IV.1.1. Thế nào là ô nhiễm nguồn nước
a) Định nghĩa
Nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn liền với sự sống của mọi sinh vật đang ngày
càng bị giảm chất lượng do chính các hoạt động nhiều mặt của con người gây ra. Khoa học
kỹ thuật phát triển đã thúc đẩy quá trình sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt cho con người. Cùng với lượng của cải vật chất được tạo ra, một lượng to lớn các loại
chất thải cũng hình thành. Các chất thải này đã được xả vào hồ, sông, biển hay vào đất. Các
thành phần có trong các loại chất thải sẽ có mặt trong nước làm cho nước không còn sạch
nữa, giá trị sử dụng của nó giảm đi và ta nói rằng nước đã bị ô nhiễm.
Các chất gây ô nhiễm nước đến từ nhiều nguồn khác nhau và tính chất gây hại cũng khác
nhau. Những chất dinh dưỡng thực vật như các muối nitrat, phosphat thường bắt nguồn
từ nước thải sinh hoạt, phân bón dùng trong nông nghiệp, các chất thải từ các chuồng trại
chăn nuôi gia súc, nước thải nhà máy đồ hộp... Những chất này gây ô nhiễm nước chủ
yếu do chúng thúc đẩy các vi sinh vật phát triển, do vậy làm tăng BOD của nước và làm
giảm nồng độ oxy hòa tan xuống dưới mức cần cho cá và các thủy sản khác sinh sống.
Các hóa chất độc hại gây ô nhiễm nước đến từ các quá trình sản xuất công nghiệp, tiêu
nước có chứa acid từ các vùng mỏ, quá trình xói mòn từ các vùng mỏ khai thác lộ thiên,
các tai nạn tràn dầu hay rò rỉ tại các bể hóa chất...
Ô nhiễm nước không chỉ là một vấn đề mỹ quan mà còn gây những hậu quả nghiêm trọng
về kinh tế và vệ sinh. Nước được xem là ô nhiễm khi có chứa những thành phần sau:
-
Các chất thải hữu cơ nguồn gốc động vật hay thực vật làm cho nồng đô oxy hòa tan
trong nước bị giảm hay mất đi do quá trình phân hủy sinh học chúng. Những chất này
có trong nước thải công nghiệp và sinh hoạt.
-
Các vi sinh vật gây bệnh có trong nước thải sinh học và trong nước thải của một số
ngành công nghiệp gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
-
Các chất dinh dưỡng thực vật (hợp chất hòa tan của N, P, K...) làm cho tảo, cỏ nước...
phát triển quá mức dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực cho phát triển thủy sản, cấp nước sinh
hoạt, du lịch và cảnh quan.
-
Các hóa chất hữu cơ tổng hợp bao gồm những chất dùng để diệt sâu bệnh, trừ cỏ, các
chất tẩy rửa có tính độc hại đối với những loài thủy sản và có thể gây hại đối với sức
khỏe con người.
-
Các chất lắng đọng gây bồi lắng ở hồ chứa, kênh mương, hải cảng... gây mài mòn các
thiết bị thủy điện và máy bơm, gây tác hại đến cá và quần thể giáp xác do chúng phủ
lấp bãi đẻ và nguồn thức ăn.
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
108
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
-
Các hóa chất vô cơ tạo ra từ quá trình sản xuất, khai thác mỏ, phân bón hóa học trong
nông nghiệp... gây trở ngại cho quá trình tự làm sạch tự nhiên của nước, gây hại cho
cá và các loài thủy sản khác, làm cho nước có độ cứng lớn, gây ăn mòn các kết cấu
thép, bê tông, làm tăng chi phí xử lý các công trình.
-
Các chất phóng xạ từ các quá trình khai thác, chế biến quặng, sử dụng các chất phóng
xạ đã tinh luyện và do bụi phóng xạ từ các vụ thử hạt nhân.
-
Nước thải có nhiệt độ cao từ các quá trình làm lạnh trong công nghiệp làm cho nhiệt
độ của nước tiếp nhận tăng lên. Mặt khác sự ngăn dòng tạo hồ chứa cũng làm tăng
nhiệt độ của nước. Sự tăng nhiệt độ của nước gây hại đến cá và các loài thủy sản
khác, làm giảm khả năng tự làm sạch của nước.
Theo WHO, sự ô nhiễm là việc đưa vào môi trường các chất thải hay năng lượng ở một
lượng nào đó có thể gây tác hại cho sức khỏe của con người, sự phát triển của các sinh
vật hay làm suy giảm chất lượng của môi trường.
Theo các qui định về bảo vệ môi trường của Việt Nam, ô nhiễm nước là việc đưa vào các
nguồn nước các tác nhân lý, hóa, sinh học và nhiệt không đặc trưng về thành phần hoặc
hàm lượng đối với môi trường ban đầu đến mức có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển bình thường của một loại sinh vật nào đó hoặc thay đổi tính chất trong lành của
môi trường ban đầu.
Theo một định nghĩa khác "Ô nhiễm nước mặt diễn ra khi đưa quá nhiều các tạp chất, các
chất không mong đợi, các tác nhân gây nguy hại vào các nguồn nước, vượt khỏi khả năng
tự làm sạch của các nguồn nước này".
b) Quá trình gây ô nhiễm chất lượng nước
Thông thường thì nguồn chất thải và nước bẩn tập trung ở những vùng hoặc những điểm
nhất định. Nhưng do hiện tượng khuyếch tán, do chảy tràn trên mặt đất, thấm xuống nước
ngầm, do sự phân hủy chất hữu cơ... sẽ tác động vào nguồn thải bẩn đó gây ra sự ô nhiễm
chất lượng nước.
b1.
Quá trình hóa học
Khi trong đất tồn tại một lượng ion đủ lớn thì dễ dàng kết tủa trong điều kiện có nước.
Phản ứng hóa học xảy ra giữa các ion với môi trường có nước trong đất gọi là các phản
ứng thay thế bề mặt. Các ion của các nguyên tố hoạt động mạnh mẽ đẩy các nguyên tố có
khả năng hoạt động yếu hơn để tạo nên một màng nước vững chắc, đồng thời cũng làm
thay đổi tính chất của đất. Chẳng hạn nếu đất chứa nhiều hợp chất Ca2+, SO42-, nguyên tố
canxi dễ tan trong nước kết hợp với gốc SO42- tạo thành axit sulfuric (H2SO4) và sau đó
nếu có điều kiện lại kết hợp với CaCO3 để trở thành CaSO4. Nếu thành phần đất thuộc
loại kiềm thì ion Ca2+ sẽ thay thế Na+ tạo thành đất chứa Ca2+ bền vững hơn.
b2.
Quá trình vận chuyển và phân hủy các hợp chất hữu cơ
Nhiều hoạt động khác nhau trên bề mặt đất đã thải các chất thải dưới dạng hữu cơ vào
nguồn nước, và dưới các điều kiện thuận lợi thì vi khuẩn và vi sinh vật khác sẽ phân hủy
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
109