Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.66 MB, 195 trang )
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
Gia tăng bệnh tật liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm
Nguồn nước bị ô nhiễm nhưng hiện vẫn còn trên 50% dân số nông thôn nước ta chưa
được sử dụng nước sạch. Tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận với các dịch vụ vệ
sinh thấp. Kết quả điều tra vệ sinh môi trường nông thôn của 8 vùng sinh thái trên cả
nước cho thấy, tình trạng vệ sinh môi trường và cá nhân còn kém, chỉ có 18% hộ gia
đình, 12% trường mẫu giáo, mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, gần 37% trạm y tế
xã có nhà tiêu hợp vệ sinh.
Trong khi đó, theo kết quả điều tra toàn quốc về thực trạng nước và vệ sinh môi trường
nông thôn, tỷ lệ nước sử dụng cho ăn uống và sinh hoạt ở vùng nông thôn đạt tiêu
chuẩn vệ sinh chỉ chiếm 15,5%. Rất nhiều nguồn nước ở các giếng khơi, nước bề mặt
và nước giếng khoan của người dân bị nhiễm vi sinh vật.
Đây là một trong những nguyên nhân, dịch bệnh vẫn tiếp tục lưu hành và diễn biến
phức tạp tại nhiều địa phương. Tiến sĩ Jean-Marc Olivé, Trưởng đại diện WHO tại Việt
Nam cho biết, trong số hơn 20.000 người tử vong tại Việt Nam do điều kiện nước sạch
và vệ sinh kém, có gần một nửa do các bệnh tiêu chảy gây ra.
Vi sinh vật và các chất hóa học có thể tồn tại trong nước và gây bệnh cho người tiếp
xúc là do. Thời gian gần đây, tình hình mắc một số bệnh liên quan đến nguồn nước đã
gia tăng như tiêu chảy, tả. Chỉ tính riêng bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm, từ đầu năm đến
nay, cả nước có gần 3.400 người mắc bệnh, trong đó có 497 trường hợp mắc tả.
Theo các chuyên gia môi trường, nguồn nước gồm cả nước ngầm, nước sinh hoạt sẽ bị
ô nhiễm nghiêm trọng hơn và tiếp tục ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân nếu các
chất thải từ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt của người dân… không được
xử lý trước khi thải ra môi trường.
1,4 tỷ người trên thế giới chịu cảnh thiếu nước sạch và thường xuyên. Đến năm 2050,
có 2,25 tỷ người. Theo tiến sĩ Jean-Marc Olivé, 10% gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu
có thể phòng ngừa được bằng cách cải thiện chất lượng nước uống và điều kiện vệ sinh.
Tại Việt Nam, ước tính tổng nhu cầu nước vào năm 2010 khoảng 70 tỷ m3 nước.
[Thế giới phụ nữ, 2008]
IV.3.2. Nguồn ô nhiễm do công nghiệp
a) Nước thải công nghiệp
Nước thải công nghiệp là nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, giao thông vận tải. Từng loại nước thải không có đặc điểm chung mà phụ thuộc
vào đặc điểm của từng ngành sản xuất. Nước thải của các xí nghiệp chế biến thực phẩm
chứa nhiều chất hữu cơ với hàm lượng cao; nước thải của các xí nghiệp thuộc da ngoài
chất hữu cơ còn có kim loại nặng, sulfur; nước thải của xí nghiệp ắc quy có nồng độ acid,
độ chì cao...
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
124
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
Khi nước thải công nghiệp được xả vào các ao hồ như là một biện pháp xử lý thì các chất
ô nhiễm có thể thấm sâu qua đất vào nguồn nước. Mức độ gây ô nhiễm phụ thuộc vào độ
sâu của mực nước ngầm nơi xả, thành phần và tính chất của các chất ô nhiễm có trong
nước thải, thành phần và cấu trúc của các lớp đất phía trên mực nước ngầm.
Bảng 4.5. Thành phần nước thải của một số ngành công nghiệp
STT
Ngành công nghiệp
Các chất ô nhiễm chủ yếu
BOD5 (mg/L)
C, F, P
1.000 ÷ 2.500
1
Bò sữa, chế biến sữa
2
Chế biến thịt
SS, P
200 ÷ 250
3
Chế biến gia cầm
SS, P
100 ÷ 2.400
4
Chế biến thịt muối
SS, P
900 ÷ 1.800
5
Kết tinh đường
SS, C
200 ÷ 1.700
6
Bia
C, P
500 ÷ 1.300
7
Đồ hộp (trái cây)
SS, C
500 ÷ 1.200
8
Thuộc da
SS, P, sulphide
250 ÷ 1.700
9
Bảng mạch điện tử
kim loại nặng
ít
10
Giặt ủi
SS, C, bột giặt, dầu
800 ÷ 1.200
11
Hóa chất
SS, có tính acid hay base cao
250 ÷ 1.500
[Nguồn: Gerard Kiely (1997)]
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
125
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
Khung 4.2 Ô nhiễm nguồn nước do nước thải chưa xử lý từ các Khu công nghiệp và
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã và đang báo động
Tại kỳ họp thứ 13, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh khóa VII, Thường trực HĐND tỉnh
Đồng Nai đã có báo cáo giám sát chuyên đề về môi trường đối với việc đầu tư hệ thống
xử lý nước thải của các khu công nghiệp (KCN) và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Tại phiên chất vấn, ông Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường, trong phần giải trình còn
cho biết thêm là lượng nước thải của một số KCN, doanh nghiệp chưa qua xử lý, thải ra
ngoài, chảy lòng vòng rồi đổ về Nhà máy nước Thiện Tân. Sự thật về xử lý nước thải,
thì hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, mới chỉ có khoảng 22% nước thải được xử lý,
còn tới 78% nuớc thải chưa qua xử lý thải ra môi trường và khoảng trên 2/3 lượng nước
này đổ ra sông Đồng Nai.
Ghi nhận được từ kết quả giám sát là đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh hiện có 21/27
KCN được thành lập đi vào hoạt động, với lượng nước thải hơn 68.000m3/ ngày đêm,
trong đó khoảng 20.000m3 thải vào sông Thị Vải và hơn 48.000m3 thải ra sông Đồng
Nai, thì chỉ có trên 20.000m3 được xử lý tại 9 nhà máy xử lý nước thải tập trung. Với
10/21 KCN đã có nhà máy xử lý nước thải tập trung nhưng đang trong tình trạng... quá
tải hoặc nước thải đã qua nhà máy xử lý nước thải tập trung vẫn chưa đạt yêu cầu. Như
ở khu công nghiệp Loteco, lượng nước thải thực tế gần 5.000m3/ngày đêm, gấp 2 lần so
với công suất nhà máy xử lý nước thải tập trung (công suất hệ thống xử lý là 2.500
m3/ngày đêm) và nhiều thông số về xử lý nước thải vẫn chưa đạt tiêu chuẩn về môi
trường. KCN Biên Hòa 1 có lượng nước thải khoảng 15.000m3/ngày đêm, thế nhưng
chỉ có 16 nhà máy ký hợp đồng đưa về nhà máy xử lý nước thải tập trung ở KCN Biên
Hòa 2 với khoảng 200m3/ngày đêm. Phần lớn lượng nước thải của các nhà máy thoát
qua cống chung của KCN và đổ thẳng ra sông Đồng Nai... Nhiều khu công nghiệp đã
có nhà máy xử lý nước thải tập trung khác vẫn còn nhiều thông số chưa đạt tiêu chuẩn
môi trường qui định (như màu sắc, COD, BOD, SS, dầu mỡ khoáng, chì, coliform...
vượt tiêu chuẩn cho phép). Qua kiểm tra của Sở Tài nguyên Môi trường, ở 13 KCN có
nguồn nước thải lớn và đã xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung ít nhiều đều gây
ô nhiễm về môi trường với mức độ có khác nhau.
Đáng lo ngại hơn là nhiều KCN đã thu hút nhiều nhà máy đi vào hoạt động và có lượng
nước thải khá lớn nhưng việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung vẫn còn...
nằm trên giấy do vướng mắc về giải phóng mặt bằng hoặc thủ tục xây dựng. Điển hình
như KCN Hố Nai (giai đoạn 1) đến nay đã cho thuê 82% diện tích đất với lượng nước
thải phát sinh khoảng 3.500 m3/ngày đêm, cần chú ý là công ty cổ phần KCN Hố Nai
đã cho thuê cả phần đất quy hoạch đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung giai đoạn
1 và công ty báo rằng chuyển việc đầu tư Nhà máy xử lý nước thải tập trung của khu
công nghiệp sang giai đoạn 2 và đến nay chưa đầu tư do còn vướng các thủ tục đầu tư,
xây dựng. Theo đánh giá của ông Lê Viết Hưng - Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường
thì KCN Hố Nai chưa đủ điều kiện đầu tư giai đoạn 2 (một trong điều kiện bắt buộc đó
là giai đoạn 1 phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung). Đến nay UBND tỉnh đã chỉ
đạo các cơ quan chức năng giúp công ty cổ phần KCN Hố Nai sớm hoàn tất thủ tục để
đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung giai đoạn 1 tại phần đất mở rộng ngoài giai
đoạn 1. Cơ quan môi trường đã kiểm tra chất lượng nước thải tại 4 cống thải của KCN
này đều không đạt tiêu chuẩn về môi trường. Đối với các doanh nghiệp trong KCN Hố
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
126
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
Nai cũng trong tình trạng chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải cục bộ, Đoàn giám sát
của Thường trực HĐND tỉnh đã giám sát tại công ty Tuico, cho thấy công ty cũng tận
dụng hết phần diện tích đất thuê làm nhà xưởng sản xuất, không quan tâm đến công tác
bảo vệ môi trường, nay công ty báo là đã hết đất cho nên không đầu tư được hệ thống
xử lý nước thải cục bộ? Rồi đến Công ty CQS cũng chưa đầu tư đúng mức hệ thống xử
lý nước thải, chất lượng nước thải không đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi thải vào
nguồn tiếp nhận của KCN Hố Nai. Cả hai công ty Đoàn đến giám sát đều đã bị UBND
tỉnh phạt với số tiền từ 26 đến 30 triệu đồng. Theo đánh giá của Sở Tài nguyên Môi
trường thì KCN Hố Nai được xếp vào danh sách ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Khu công nghiệp Sông Mây (giai đoạn 1) đã có 36 nhà máy đi vào hoạt động với
nguồn nước thải 2.500m3/ngày đêm nhưng chỉ có 8 nhà máy có hệ thống xử lý nước
thải cục bộ. Việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung của KCN Sông Mây
chậm là vì chưa được bàn giao mặt bằng, mặc dù sự việc này đã được Thường trực
HĐND tỉnh kiến nghị phải thực hiện gấp cách nay đã 2 năm, nhưng đến nay vẫn còn
nằm trong vòng “chỉ đạo”.
Khu công nghiệp Bàu Xéo đã cho thuê 87% diện tích đất với lượng nước thải 2.800
m3/ngày đêm, song hệ thống thoát nước và nhà máy xử lý nước thải tập trung chưa xây
dựng vì chưa được phê duyệt thiết kế chi tiết các hạng mục công trình... Qua kiểm tra
của Sở Tài nguyên Môi trường, các KCN đã có nhà máy đi vào hoạt động nhưng chưa
xây dựng nhà máy xử lý nước thải đều có nhiều thông số ô nhiễm trong nước thải với
mức độ ô nhiễm cao.
Có thể nói, đến thời điểm này thì còn nhiều KCN như Hố Nai, Sông Mây, Bàu Xéo,
Thạnh Phú, Ông Kèo, dệt may Nhơn trạch, Định Quán, Xuân Lộc, Nhơn Trạch 5, thì
việc đảm bảo thời hạn đến cuối năm 2008 phải hoàn thành nhà máy xử lý nước thải tập
trung là không thể thực hiện. Còn đối với các KCN đã xây dựng nhà máy xử lý nước
thải tập trung, thì phải nâng công suất xử lý để đáp ứng yêu cầu lượng nước thải thực
tế, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra để xử lý triệt để các thông số ô nhiễm trong
nước thải còn vượt tiêu chuẩn cho phép. Sự chậm trễ trong việc đầu tư nhà máy xử lý
nước thải tập trung không chỉ phụ thuộc vào các công ty kinh doanh hạ tầng khu công
nghiệp, mà còn có trách nhiệm của các địa phương trong việc giải phóng mặt bằng giao
đất cho doanh nghiệp và cả việc nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước
trong công tác bảo vệ môi trường, nhất là việc thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh là vào
cuối năm 2008 phải đầu tư và đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung tại
các KCN trên địa bàn tỉnh.
Đối với các doanh nghiệp ngoài KCN trên địa bàn tỉnh có 110 doanh nghiệp với lưu
lượng nước thải là 136.485 m3/ngày, tuy nhiên mới có 16/110 doanh nghiệp có hệ
thống xử lý nước thải, xử lý được 23.150 m3/ngày, như vậy còn 113.335 m3 nước thải
không qua xử lý từ các doanh nghiệp này vẫn hàng ngày thải ra môi trường.
Như vậy, nếu so với Quyết định số 27/2007/QĐ-UBND của UBND tỉnh phê duyệt
Chương trình bảo vệ môi trường giai đoạn 2006 ÷ 2010 và Chương trình hành động số
05/Ttr-TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thì khó đạt cả về mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ
môi trường và không thể đảm bảo chỉ tiêu là đến 31/12/2008 tất cả các KCN phải đầu
tư xây dựng xong hệ thống xử lý nước thải tập trung. Qua tình hình nêu trên cho thấy
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
127
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
một sự thật về ô nhiễm nguồn nước mà nhân dân Đồng Nai đã và đang phải gánh chịu.
Ông Trần Đình Thành - Chủ tịch HĐND tỉnh - tại kỳ họp đã phát biểu: “Không thể
phát triển công nghiệp mà để hy sinh môi trường”, sông Đồng Nai không phải của
riêng nhân dân Đồng Nai, nó là nguồn cung cấp nước cho nhiều địa phương khác,
chúng ta không thể yên lặng mà chấp nhận sự hy sinh này; ông cũng nhấn mạnh
“Không phát triển thêm KCN nữa mà giữ ở con số 27 KCN để thu hút lấp đầy và đầu
tư hạ tầng hoàn chỉnh, trong đó phải chú ý đến đầu tư các hạng mục xử lý môi trường
đối với nước thải, khí thải và chất thải”, phải kiên quyết xử lý những vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường, đồng thời kiên quyết đóng cửa các KCN, các doanh nghiệp nếu đến
ngày 31/12/2008 không có hệ thống xử lý nước thải.
[Nguồn: Nguyễn Thị Phi (2008)]
b) Thẩm lậu qua bể chứa và ống dẫn
Việc tồn trữ và bơm truyền ngầm một lượng lớn các nhiên liệu và hóa chất lỏng thường gặp
ở nhiều khu công nghiệp. Những bể chứa và ống dẫn này có thể có các khuyết tật về cấu trúc
hoặc hư hỏng trong quá trình sử dụng nên sự thẩm thấu nhiên liệu và hóa chất từ chúng trở
thành nguồn ô nhiễm nước quan trọng. Các loại xăng dầu do tính pha trộn kém nên mỗi khi
rò rỉ vào đất sẽ di chuyển xuống phía dưới và dễ dàng tới được nước ngầm. Trong nước
ngầm chúng lan rộng ra tạo thành lớp màng mỏng trên mặt rồi tiếp tục di chuyển lan rộng ra
hai bên theo dòng nước ngầm làm ô nhiễm cả một tầng nước ngầm bên dưới.
c) Hoạt động khai khoáng
Hoạt động khai khoáng ở các vùng mỏ có thể gây nên hiện tượng ô nhiễm những nguồn
nước khác nhau. Sự ô nhiễm phụ thuộc vào loại quặng khai thác, quá trình xử lý quặng
như nghiền, tuyển chọn... Các vùng mỏ (than, phosphat, sắt, đồng, chì, uranium, kẽm...)
dù khai thác ngầm hay lộ thiên thường trải rộng dưới mực nước ngầm nên thường xuyên
phải bơm tiêu nước. Những loại nước tiêu thoát này có pH thấp, nồng độ các ion kim loại
và sulfat cao. Do đó nếu không có hệ thống tiêu và xử lý thích hợp thì nước tiêu thoát ra
từ các vùng mỏ sẽ thấm xuống làm ô nhiễm nước ngầm.
Khung 4.3 Khai thác khoáng sản tại mỏ Trại Cau - Thái Nguyên: Sống chung với
mìn nổ, đất sụt, nước cạn
Một tiếng nổ lớn vang lên, bức tường nhà anh Trịnh Đình Tài bị xé toạc, vì kèo, xà nhà
kêu răng rắc, cốc nước trên mặt bàn “nhảy” xuống nền nhà, tiếng trẻ em khóc ré lên…
Đó là cảnh cơm bữa của gần 300 người dân sống gần mỏ sắt Trại Cau - Thái Nguyên.
Tính mạng “treo” đầu tiếng mìn
Ông Nguyễn Xuân Nguyên, Tổ phó tổ 1, thị trấn Trại Cau cho biết, “việc nổ mìn làm
ảnh hưởng đến cuộc sống người dân chúng tôi đã diễn ra từ lâu, chúng tôi cũng đã gửi
đơn từ đến các cơ quan chức năng của tỉnh nhưng mọi việc vẫn cứ giậm chân tại chỗ”.
Một cán bộ UBND thị trấn Trại Cau nói, cứ vào khoảng 12h trưa hàng ngày là những
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
128
Chương IV: Các vấn đề về ô nhiễm nguồn nước
công nhân khai thác mỏ lại cho nổ mìn như vậy, nhưng hễ có đoàn đi kiểm tra đến thì
sự việc lại khác.
Ông Nghiêm Sơn Hà, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Trại Cau cho biết, “một trong
những vấn đề mà chúng tôi quan tâm đó là tính mạng của người dân sống quanh khu
vực khai thác mỏ, chúng tôi đã kiến nghị lên cơ quan cấp trên để di dời người dân đi
nơi khác, nhưng kiến nghị nhiều mà chưa được giải quyết”.
Trao đổi với phóng viên về vấn đề kiểm tra, quản lí vật liệu nổ của Công ty Gang thép
Thái Nguyên - đơn vị đang trực tiếp khai thác mỏ sắt Trại Cau, ông Nguyễn Mạnh
Tiêu, Phó Giám đốc Sở Công thương Thái Nguyên cho biết, việc quản lí về các “hộ
chiếu” nổ mìn đối với Công ty gang thép Thái Nguyên được chúng tôi quản rất chặt
chẽ, theo những quy định hết sức nghiêm ngặt nhưng chưa phát hiện ra vi phạm nào.
Tuy nhiên, ông Tiêu thừa nhận “việc kiểm tra chỉ thực hiện được trên giấy tờ, sổ sách,
còn nếu như những công nhân trực tiếp nổ mìn khai thác mà họ gian lận thì chúng tôi
chịu”. Ông Tiêu lấy ví dụ, “lẽ ra trong một ngày, họ nổ một tạ thuốc nổ nhưng chia ra
làm nhiều lần thì không vấn đề gì, nhưng một tạ thuốc nổ ấy mà họ chỉ cho nổ một lần
thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng”.
Theo ông Tiêu, “trước đây tại mỏ sắt Trại Cau cũng từng xảy ra một vụ nổ mìn khai
thác mỏ làm sập một nhà dân. Chúng tôi đã đi kiểm tra và phát hiện thấy Công ty Gang
thép Thái Nguyên cho nổ mìn tới 5 tạ thuốc nổ/ngày. Sau đó chúng tôi đã yêu cầu phía
Công ty chỉ được phép nổ mìn khoảng từ 1 ÷ 1,5 tạ thuốc nổ/ngày”.
Đi bộ 2km để… lấy nước sinh hoạt
Việc khai thác khoáng sản tại mỏ sắt Trại Cau ngoài vấn đề lợi ích kinh tế đem lại cho
Thái Nguyên thì không thể không nói tới những tác hại đối với môi trường nước ngầm
xung quanh mỏ.
Ông Nguyễn Xuân Nguyên, Tổ phó tổ 1, thị trấn Trại Cau phản ánh, cả tổ có 62 hộ gia
đình, giờ chỉ còn duy nhất 2 gia đình là còn nước sinh hoạt, tất cả các hộ gia đình khác
thì giếng nước đều bị cạn sạch từ 2 năm nay. Có những miệng giếng khoan mà nhà ông
đã khoan sâu tới 30 ÷ 40m nhưng không có nước, thợ khoan giếng cũng chán, bỏ đi
chỗ khác, tiền công thuê thợ khoan giếng thì chủ nhà vẫn phải trả, một số hộ gia đình
khác trong xóm, toàn bộ các giếng khơi được đào sâu trung bình 10m đều đã cạn sạch
nước. Bà Nguyễn Thị Lan cho biết, cách đây 2 năm nước giếng sinh hoạt nhà bà hàng
ngày bỗng dưng bị “tụt” sạch nước, bà thuê thợ về khoan giếng tới 5 lỗ, nhưng vẫn
chẳng tìm thấy giọt nước nào. “Chúng tôi kiến nghị lên chính quyền địa phương nhiều
rồi nhưng chẳng thấy ăn thua gì. Không biết cuộc sống của người dân chúng tôi còn
khổ đến bao giờ”, bà Lan nói.
Thiếu nước sạch sinh hoạt hàng ngày, hàng chục hộ dân tổ 1 đều phải đi bộ gần 2km để
xin nước về dùng. Anh Nguyễn Thanh Sơn, phàn nàn, từ 2 năm nay nhà tôi đã phải xin
nước sinh hoạt của anh em bên tổ 2 và tổ 4. Cả gia đình có 4 người, hàng ngày dùng
tiết kiệm cũng hết tới 10 xô nước, chuyện tắm giặt đối với gia đình vợ con thì càng khó
khăn hơn. Vào mùa khô nhà nào cũng thiếu nước trầm trọng, có đợt tới 3 ngày tôi mới
Giáo trình TÀI NGUYÊN NƯỚC LỤC ĐỊA
129